vietnamese Tiếng Việt english English
Hôm nay:
Tin mới đăng:

Từ thị xã Phủ Lý theo quốc lộ 1A đi về phía Ninh Bình 2km, rẽ phải theo đường qua cầu Đọ về Châu Sơn 4km sẽ đến động.


Động Phúc Long nằm trong khu vực núi Chùa thôn Châu, thuộc núi Kiện Khê (còn gọi là núi Thiên Kiện). Núi Chùa là một trong số những ngọn núi nối đuôi nhau ở địa phận thôn Châu Sơn và thôn La Mát thuộc Kiện Khê. Núi Chùa là ngọn trung tâm, trên đó có chùa Hang, có khu miếu ở phía bắc chùa. Vua Trần Duệ Tông (1373-1377) đã cho lập đền thờ trên núi, đền thờ này bị nhà Nguyễn phá vào năm Tân Dậu (1801) và cho xây lại ở thôn Châu như vị trí hiện nay. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, tục truyền trên núi Thiên Kiện có cây tùng cổ có rồng quần ở trên, vua Trần Thái Tông đã lập hành cung và Trần Đế Nghiễn cho quân vận chuyển tiền đồng về cất giấu năm 1379 ở nơi đây. Thời Pháp thuộc, Viễn Đông bác cổ đã liệt hạng núi Chùa là cổ tích danh thắng (ngày 01 tháng 6 năm 1925).

Núi Chùa do các khối đá vỉa xếp chồng chất, lởm chởm như đầu con rồng. Có mỏm đứng chơ vơ trên đỉnh như sừng rồng, nhiều mỏm đá dựng ngược như tóc rồng, phía nam núi có một mái đá nhô ra, dưới mái đá có những vỉa bò lan, nổi cộm lại thành miệng con rồng mà ngôi chùa như hạt ngọc nằm gọn trong miệng con rồng, nhiều vỉa đá xếp thành các bậc thang rất thuận tiện cho việc lên núi ngắm cảnh. Trên đỉnh núi có nhiều cây cổ thụ kiểu dáng khác nhau, từ đây có thể bao quát cảnh sơn thủy hữu tình của sông Đáy, núi Bút Sơn, thành nhà Hồ, núi rừng Thanh Thủy và dòng sông Đáy.

Từ đất bằng leo lên chừng 2m tới cửa động, từ cửa động đi vào chừng 5m tới một ngã ba, rẽ bên phải đi xuống dần hàng chục mét là động có nhiều thạch nhũ đẹp, rẽ bên trái là đường lởm chởm nhũ đá nhô lên, rủ xuống tạo thành nhiều hình thù kỳ lạ. Động Phúc Long có dáng một con rồng thắt túi, có nhiều dơi bám trên vách nên nhân dân địa phương còn gọi đây là hang dơi. Động Phúc Long có sức chứa vài trăm người. Động hài hòa với cảnh quan núi Chùa, ngay bên cạnh là đình và chùa thôn Châu, tạo thành một di tích thắng cảnh hấp dẫn đối với du khách gần xa.

(Nguồn: hanam.gov.vn)

Từ thị xã Phủ Lý qua cầu Hồng Phú, theo quốc lộ 21, đến cây số 11, rẽ trái 500m là tới hang. Trước cửa hang, có hai quả núi thấp đứng đối nhau tạo nên một cửa đá đồ sộ chắn ngang trước cửa hang.


Đây là một điểm dừng chân lý tưởng để ngắm toàn cảnh khu vực núi non và hang Luồn

Đây là khu vực được bao bọc xung quanh bởi các dãy núi cao, ở giữa thung lũng này nổi lên một dãy núi thấp, dãy núi này có hang Luồn. Miệng hang Luồn chính là mặt trước của dãy núi nhìn ra cửa đá. Trước mặt hang là một bãi đất rộng có một con kênh lớn chứa nhiều nước. Về mùa mưa, đây là một bến thuyền.

Mùa cạn có thể vừa đi thuyền, vừa đi bộ xuống cửa hang. Nguồn nước ở đây từ các khe núi cao đổ xuống, tỏa vào các kênh, các mạch ngầm rồi dẫn ra sông Đáy. Chính vì vậy, nước rất trong và sạch, có thể nhìn thấu đáy. Về mùa mưa, nước dâng lên sát trần hang nhưng cũng chỉ chốc lát là rút hết, chỉ giữ lại một lượng nước vừa đủ để vào hang.

Toàn cảnh khu Hang Luồn.

Miệng hang Luồn có hình vòm vách núi, chỗ nhô ra, chỗ lõm vào, chỗ thì chạy thẳng xuống lòng hang, vách thì uốn cong. Đặc biệt có vô số các nhũ đá hình thù muôn vẻ, cái từ trần hang rủ xuống, cái từ vách đá chồi ra kéo dài suốt chiều dài cửa hang.

Chiều dài hang Luồn khoảng 400m, chiều rộng của hang vừa đủ cho một đoàn khách đi thuyền ngắm các vách núi với các nhũ đá kỳ lạ và nghe tiếng nước rỏ tí tách. Trong ánh sáng mờ ảo du khách sẽ cảm thấy bập bềnh, rồi du thuyền sẽ đưa du khách tới một không gian mở ra choáng ngợp khi gặp ao Dong.

Ao Dong rộng khoảng 300 mẫu, nước trong vắt có thể nhìn thấy từng con cá bơi, thấy cả thảm thực vật, đặc biệt là các loài rong núi, ngay cả ở mực nước sâu tới 3m. Ao Dong được tạo nên bởi các dãy núi cao, với rừng cây bên sườn núi. Động vật ở đây khá đa dạng, cỏ trắng, sơn dương rất nhiều tạo thêm sự sinh động hấp dẫn cho cảnh quan. Các ngọn núi in bóng xuống làn nước trong vắt của ao Dong tạo nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình.



Hang Luồn, ao Dong với sự kết hợp hài hòa của núi non cây cỏ, trời xanh, nước biếc, quần thể động thực vật hoang dã phong phú là điểm du lịch sinh thái có giá trị của tỉnh Hà Nam.

Từ thị xã Phủ Lý đi 3km tới dốc Đọ, rẽ tay trái 2km vào đường liên xã, đến thôn An Hòa rẽ phải 300m là đến di tích.

Cổng đình An Hòa
Đình An Hòa thờ hoàng tử Linh Lang và phò mã Kiều Đức Mậu thời Lý. Tương truyền trên đường đi đánh giặc phương nam, Linh Lang đã dừng lại vùng An Hòa để chiêu mộ binh sĩ. Trong số trai trái tình nguyện đi theo, Kiều Đức Mậu được phong làm tướng. Theo người dân địa phương, khu đất hình con rùa ở đây chính là nơi mà trước đây hoàng tử Linh Lang đã đóng quân, lập đồn và huấn luyện quân sĩ. Vì vậy, khi hoàng tử Linh Lang mất, dân đã chọn nơi đây để lập đền thờ. Vị thần được thờ cùng Linh Lang là Kiều Đức Mậu. Ông là người ở vùng núi phía tây huyện Thanh Liêm. Sau khi cùng Linh Lang đánh thắng giặc phương nam, ông được vua Lý Thái Tông chọn làm phò mã. Bởi mến cảnh vùng này nên ông cho lập cung ở đây, lại cung cấp tiền của để chiêu dân lập ấp tại vùng này. Do vậy, nhân dân ở đây vẫn thờ ông làm ông tổ có công lập nên làng xã. Tại đây còn có riêng một ban thờ các tổ lập làng xây dựng quê hương.
Đình An Hòa được xây dựng trên khu đất rộng, mặt trước đình có hồ rộng, hệ thống cột đồng trụ, tường bao. Tòa tiền đường là một công trình mái cong, 4 mái trải rộng nhưng do những trang trí ở hệ thống dao góc nên vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát. Mái được lợp ngói mũi hài, nhà được làm theo lối chồng rường bẩy kẻ. Bộ khung công trình được làm theo lối tứ trụ, có 8 cột cái và cột quan. Các cột cái được làm theo lối búp đòng, chân cột được đặt trên tảng đá vuông xanh có chạm nổi gương tròn để đỡ chân cột. Hệ thống bẩy có bẩy tiền, bẩy hậu và 12 bẩy phụ. Hệ thống đòn bẩy hòa nhập với kẻ góc thành một tổng thể tự nhiên thể hiện kỹ thuật lành nghề của nghệ nhân dân gian.
Đình An Hòa được thiết kế theo kiểu mái cong, chỉ có 4 vì nên hệ thống cột là bộ đỡ quan trọng nhất của khung nhà. Ngoài 8 cột cái được làm theo kiểu phổ biến ở đình là kiểu cột búp đòng chân cột đặt trên đá tảng đế vuông, trên mặt đế chạm nổi gương tròn để đỡ chân cột có hệ thống cột quân có đường kính 0,3m, rất hài Hòa với cột cái cũng được chọn gỗ để làm. Vì vậy đã qua 400 năm mà vẫn bền vững, vẫn nổi vẻ đẹp kiểu dáng, đến các đường vân của gỗ. Hệ thống câu đầu của đình cũng rất lớn, dài tới 4,5m là kiểu má chai, giữa to hai đầu nhỏ dần. Dạ câu đầu tạo gờ chỉ, lá sồi trang trí đẹp mắt. Câu đầu còn được đặt trên hệ thống đầu dư rất cầu kỳ. Mẫu đầu dư là một đầu rồng được chạm kênh bong đã thể hiện đường nét nhấn tỉa khá phóng khoáng. Mỗi đầu dư một vẻ nhưng không hề dập khuôn. Điều đặc biệt là phía sau của đầu dư vừa lá phía sau của đầu cột cũng được đục chạm tạo thân hoặc đuôi rồng, chứng tỏ yêu cầu thẩm mỹ của công trình này được đặt ra rất cao.
Hệ thống bẩy ở đây gồm có bẩy tiền, bẩy hậu và 12 bẩy phụ ở góc dao và mái trái. Các bẩy nào cũng được tạo dáng có kích cỡ khác nhau, đặc điểm cao thấp khác nhau để đỡ cho mái cong dần về hai phía với độ uốn lượn đều đặn cả bốn mái. Cũng như các công trình kiến trúc cổ khác, phần chạm khắc được ưu tiên cho hàng bẩy tiền và quan trọng hơn là những bẩy ở gian chính giữa công trình. Những chiếc bẩy ở đây được chạm khắc trong nhiều đề tài như long chầu, long vân uốn lượn sinh động. Đan xen các đề tài còn có lá lật, lá hảo và các lớp chỉ lồng, chỉ kép dùng để trang trí dạ và thành bẩy, khiến những khúc gỗ to, cứng giữ chức năng đỡ bộ máy nặng nề lại trở thành mềm mại, hấp dẫn.

Đình An Hòa
Kẻ góc của đình An Hòa cũng Hòa nhập với tổng thể công trình, nhất là với hệ thống đòn bẩy. Nhưng việc thi công bốn kẻ góc mà dân gian thường gọi là xà cổ ngỗng, để vừa đảm bảo mỹ thuật vừa uốn lượn tự thân con rồng là điều rất khó. Người thợ phải chắp nối gỗ theo kỹ thuật lành nghề mới đạt được cả hai yêu cầu kỹ thuật và mỹ thuật. Trên lớp vì được tạo lớp lớp con rường, trụ non đấu trụ. Để giải quyết chức năng giữ hoành mái, các cấu kiện này còn được làm theo kiểu dáng ống tơ, cho hàng con rường nhẹ nhõm. Hai đầu lại tạo dáng một con thú ghé vai đỡ hoành, hoặc điểm các hoạ tiết hoa lá,  lá hoa nên tuy cả mảng là gỗ xếp lên nhau mà vẫn không có cảm giác nặng nề.
Điều đáng quan tâm về nghệ thuật điêu khắc là các mảng chạm trên con rường, hà diệp, xà nách, xà đùi ở hai gian trái đình. Các nghệ nhân đã thể hiện các đề tài tứ linh: cảnh rồng mớm, rồng âu yếm vờn nhau, cảnh trúc hoá, sen hoá, cảnh đầu người mình chim cũng thể hiện rất sinh động, cảnh rồng mẹ vui với rồng con, ly to lấy chân gìm giữ ly con, ly cắn tai rồng, ly cắn đuôi… Cảnh nào cũng là những đường nét chạm hóm hỉnh, bao hàm nhiều ý nghĩa sâu xa.
Những đề tài nổi trội mà ít nơi có được, đó là mảng chạm khắc dân gian khiêm tốn nép mình ở một số cấu kiện trong đình An Hòa. Trên cảnh ván bưng có cảnh hai người ôm đôi gà chọi trên tay, mà đôi gà vẫn chõ mỏ vào nhau như đang dở cuộc đấu. Giữa khung cảnh người và vật còn có hoạ tiết bông hoa làm tăng thêm ý nghĩa trò chơi gà chọi, một môn chơi truyền thống lành mạnh trong những ngày xuân. Trên xà nách gian giữa, ngoài các cảnh tứ linh, các băng lá sòi sen hóa nghệ thuật còn có cảnh tiên cưỡi rồng, cảnh con hổ nhe răng rất dữ tợn, cảnh chim và sóc đang tranh ăn, cảnh ly leo trên cây ăn quả, cảnh ly đeo chuỗi nhạc ngựa và người đang giành giữ nhau, người lấy chân đạp giữ chân ly. Trên trụ non người thợ còn chạm cảnh hai con thú đang ôm giữ bông hoa sen cách điệu. Tại hàng xà nách phía trong ngoài các đề tài tứ linh sinh động, hoa lá, lá hỏa, vân ám còn nổi lên cảnh người đóng khố leo cây, một tay hái quả, một tay giữ cành. Đây là cảnh hái dừa. Những con người được cách điệu rất to lớn so với cây cối xung quanh.
Trên hạ điệp còn chạm nổi cảnh hai chiếc thuyền rồng. Một chiếc đang đi với bốn người đóng khố chèo thuyền và một chiếc đã khuất. Dòng nước ở đây còn gợn sóng nổi lên hình cá lượn trên sông. Đây không phải là ảnh bơi chải bình thường thấy trong lễ hội dân gian, mà là cảnh bơi thuyền rồng. Chắc nghệ nhân muốn đưa hình ảnh này gắn với sự kiện hoàng tử Linh Lang cùng với tướng hành binh trên sông đi chinh phạt giặc ở phương Nam. Ở đây lại còn cảnh con cốc đang nghếch cổ lên, miệng thì ngậm con cá. Tất cả những mảng chạm khắc ở đình An Hòa đã góp phần nâng cao giá trị cho công trình kiến trúc lên rất nhiều. Các mảng chạm khắc không chỉ phong phú về nội dung, đa dạng về đề tài mà còn được thể hiện bằng những tay nghề điêu luyện làm cho những mảng trang trí ở đây có hồn, sống được cùng thời gian. Nhiều cơ quan Trung ương và địa phương đã về sao chép, phục chế để được giới thiệu rộng rãi những tác phẩm nghệ thuật đình An Hòa với nhân dân trong nước và thế giới. Đó là niềm tự hào cho địa phương.
Đình An Hòa là một công trình quy mô nên thờ cúng có quy cách lớn và được làm rất kỳ công, có giá trị về mặt nghệ thuật.
Trong số bốn cỗ ngai ở đình có ngai cỗ tương đối lớn có quy cách 1,4x0,8x0,7m. Đây là hai ngai thờ Linh Lang đại vương và phò mã bản thổ tôn thần. Ngai được sơn son thiếp vàng lộng lẫy, rất kỳ công trong nghệ thuật tạo dáng và điêu khắc. Tay ngai làm kiểu rồng chầu, sáu trụ chạm sáu rồng leo, đan xen vân ám và các vòng tiện trang trí. Sập ngai là nơi đặt long bài cũng được tạo dáng rất đẹp theo kiểu chân quỳ dạ cá. Từ mặt sập, cổ sập, bệ dưới của sập cũng được gia công nghệ thuật bằng các đường chỉ viền, các băng hoạ tiết, lá sòi, cánh sen chạy quanh với các ô mảng chạm thong phong, tứ linh hoặc hoa lá rất sinh động.
Chiếc hương án ở chính gian giữa cao 1,5x1,7x0,75m cũng được làm rất cầu kỳ. Hương án chia làm hai phần có thể tháo rời một cách dễ dàng. Phần trên gồm mặt hương án, được làm to thân dưới, lại trang trí rất hài hòa. Từ bao loan với dáng rồng, ly đến các băng hoa lá viền mép, những khuông chạm tứ linh, hổ phù cũng được nhấn tỉa tài tình. Thân dưới hương án được tạo nhiều ô mảng theo các đề tài long chầu, phượng vũ, long mã đi trên nước, rùa ẩn hiện trong ao sen vừa cách điệu vừa rất hiện thực. Chính giữa thân hương án có cả mảng chạm long cuốn thuỷ, được đục kênh bong vừa đẹp vừa tổng thể, vừa hấp dẫn ở từng chi tiết. Hai bên hương án cũng được trang trí công phu theo nhiều đề tài.
Chiếc bát hương đồng cao 0,5m cũng là hiện vật tiêu biểu. Bát hương có hình trụ, bên tai là hai con rồng nổi vươn cao bám giữ thân bát hương. Hai bên còn đúc nổi hoạ tiết ly chầu, phượng múa, đôi hạc chầu, hổ phù, long mã và trên miệng bát hương còn có hình mặt nguyệt, âm ám, phía dưới nổi lên bốn chữ  “Thánh cung vạn tuế” hài hòa với tổng thể. Tạo được một bát hương đồng mà họa tiết nổi lên như dính trên thành, trên miệng quả là một kỹ thuật khó, hơn nữa, các họa tiết trên bát hương đồng lại rất cầu kỳ. Đó là những thành tựu đáng tự hào về nghệ thuật cổ truyền của dân tộc.
Bức võng cố định rất lớn đã làm tăng vẻ uy nghiêm và vẻ đẹp cho công trình. Hệ thống riềm trên hai bức võng tạo dáng độc đáo được lắp vát nghiêng chếch về phía trước đã tạo thêm độ sâu và rất hài hòa với bố cục. Trên cùng cửa võng có những hoạ nét lượn cong chầu nguyệt, riềm hai bên chạm long chầu, phượng múa, ly và quy. ở giữa bức võng có bốn chữ "Thiên định phúc thần" (vị phúc thần do trời đưa xuống). Bức của võng được đục chạm trổ tinh xảo, lại bố cục đăng đối nên rất hòa nhập với tổng thể mảng chạm khắc của công trình trên.

Theo Cổng TTĐT tỉnh Hà Nam


Chùa Bạch Liên có nghệ thuật chạm khắc mang tính nghệ thuật cao. Trước hết là hệ thống cửa võng. Gian chính giữa của tòa nhà tiền đường và 4 vì của chùa Tam Bảo, đều có cửa võng nằm gọn gàng trong khung giữa đại trụ và câu đầu, hoặc đại trụ và xà lòng của công trình.

Từ cửa bước vào cửa tòa tiền đường, ngay hàng cột đầu tiên, đã xuất hiện tòa cửa võng "Cửu long tranh châu" chạm khắc nghệ thuật, tạo không khí uy nghiêm. Ở tòa võng thứ 2 cũng ở chính diện tòa tiền đường, các nghệ nhân làng Ngò, xã Tiên Nôi, huyện Duy Tiên đã không quản công mang hết khả năng tạo nên mô típ giàn nho sinh động làm đường diềm phía trên, lại đến lớp lớp cánh sen dụ đều đặn đổ về hai phía, chạy theo đường riềm phía dưới. Khuôn cửa võng nằm lọt giữa hai đai trụ, phía trên có xà lòng. Cửa võng uốn lượn nhịp nhàng, cân đối theo dạng vành đai. Chính giữa cũng là vị trí cao nhất, trang trọng nhất là hình ảnh phật đường nơi Tây Trúc, trang nghiêm cao vời vợi. Hai bên là cảnh thỉnh kinh của thầy trò Đường Tam Tạng, Tôn Ngộ Không, Sa Tăng, Bát Giới với những chặng đường mà nghệ nhân diễn tả cách điệu qua thân cây mai hoặc áng mây khiến người xem hình dung trăm ngàn nỗi gian truân trên đường đi thỉnh kinh học đạo. Nghệ nhân còn khéo léo tạo hình chẳng hạn như quỷ dữ kỳ quái ác độc, các thần nhân "Kim Cương" oai phong lẫm liệt.

Bức cửa võng thứ 3, ở vị trí đầu tiên của tòa tam bảo, được bố cục dưới bức đại tự khảm trai, với 4 chữ lớn nổi bật "Đàm hoa hiện thụy" nghĩa là trong vườn hoa cửa thiền thấy rõ điều tốt lành, do các tín lão trong ấp tiên cúng. Hai bên cửa võng là đôi câu đối chạm khảm trai uốn lượn hình mai với các áng mây bay lượn tầng tầng lớp lớp để tạo nền, nâng đỡ các tòa sen mà "tứ vị bồ tát" đang yên vị "tĩnh tọa" hoặc tạo thang mây cho "bát vị kim cương", áo mũ cân đai, oai phong trong y phục và đồ khí tượng, đứng trấn giữ các phương để bảo vệ cho thế giới Phật. Với đề tài "tứ vị bồ tát", "bát vị kim cương", người thợ truyền thống ở đây đã khéo léo tạo ra cảnh sắc của thế giới tự nhiên, rất hòa nhập với các nhân vật. Cũng tại vì này hai bên xà nách, đều trang trí hai nửa cuốn thư (bán cuốn thư), là những tác phẩm chạm khắc gỗ tinh vi, có sự tạo dáng tự nhiên mềm mại của nhành mai hóa long trông thật hấp dẫn. Dưới cuốn thư cài thêm hai bộ cửa võng nhỏ dưới xà, với các hoạ tiết hoa lá cách điệu, làm tăng sự lộng lẫy hoàn chỉnh của vì chính điện ở tam bảo.

Tòa cửa võng thứ 4, cũng gắn dưới hàng câu đầu, hai bên bám sát đai trụ, vừa có giá trị trang trí, vừa giữ thêm chức năng của giá trị công trình. Nghệ nhân  đã khắc hoạ hai cây tùng hóa long, bên cây tùng có họa tiết dàn nho sinh động nép bóng, điểm thêm bóng hình chim trĩ đang nhảy nhót, nghiêng ngó tìm mồi. Dưới bóng hình đại thụ, người thợ truyền thống làm nghề còn điểm thêm các vòng trang trí như cảnh ao sen có hoa nở rộ, những áng mây nhẹ nhàng lướt bay, ôm ấp mặt nguyệt, vài nhành mai tốt tươi lắm nụ, nhiều hoa núp bóng cây tùng. Nghệ nhân dân gian đã khéo biến từ lòng gỗ để làm nảy lên một thế giới tự nhiên như tùng mai, dàn nho, ao sen, mây tỏa, những con chim… vô cùng sống động. Hai bên xà nách của vì này, cũng được trang trí bằng các bức vẽ cặp chim phượng đang xoè cánh, vươn đuôi, cảnh ao sen tươi tốt, đang nở hoa xanh lá. Với những đường nét tinh tế, mảng chạm bé nhỏ này như gợi lại cảnh ao sen xưa kia, trước cửa chùa Bạch Liên.

Phần chính diện của cửa võng thứ 5 được gia công nghệ thuật chu đáo. Nghệ nhân đã tỉ mỉ và điêu luyện khắc lên gỗ một bức tranh sinh động như một bức gấm dệt công phu, có điểm cài hoa phù dung, có các nhạc cụ dân tộc như đàn, sáo, nhị… Trên hàng xà nách của vì thứ năm, cũng có các bức vẽ sơn son thiếp vàng, với hình ảnh "long cuốn thuỷ". Dưới đó là hàng phù điêu sen dẻo chạm bong và lá lật, để tạo thành cửa võng phụ, bổ trợ, làm tăng thêm trọng lượng cho mảng nghệ thuật chính diện.

Vì kèo trong cùng, gần giáp đốc nhà tam bảo, không tạo thành cửa võng vì các bộ thờ được xây dựng theo cấp cao dần, nếu thiết kế cửa võng ở đây sẽ che khuất đi. Nghệ nhân đã khắc hoạ một mô típ hoa sen, với những đường nét hình dáng mềm mại, với nghệ thuật sơn son thiếp vàng, rất hài hòa với tổng thể hệ thống cửa võng, cuốn thư trang trí phía ngoài và rất hợp với nội dung hình thức đại tự phía trên "Đại hùng bảo diện", nghĩa là điện thờ này quý giá, hùng tráng, vĩ đại.

Chùa Bạch Liên còn có bộ y môn, gồm bốn chiếc làm bằng gỗ, sơn sơn thiếp vàng rất đẹp, treo ở mặt tiền tòa tiền đường, giữa những căn xà lòng thượng và hạ của bốn gian phía đông và phía tây. Y môn cùng với đại tự, cửa võng che chắn một phần kiến trúc mái công trình, khiến nội thất tăng thêm vẻ lộng lẫy nguy nga. Và kiểu dáng thì 2 cặp y môn chùa Bạch Liên cũng có riềm thượng, riềm hạ cũng có các đai phân khoảng trang trí… như mọi  y môn cổ truyền của dân tộc. Điều đáng lưu ý là nghệ thuật chạm khắc phong phú, điêu luyện. Cặp y môn phía đông tòa tiền đường, với các hoạ tiết "long cuốn thuỷ" với long, ly, quy, phượng thật hấp dẫn. Cấu trúc được tạo dáng thành hình đầu rồng rất sinh động đầy đủ bờm, râu, tóc như đang muốn bay ra ngoài. Nhành mai, cành trúc được chạm uốn lượn như thân con rồng rất sinh động. Ở riềm dưới là các họa tiết phượng múa, lly và quy, bộ đỉnh, bình hoa đặt trên "tam sơn" các hoạ tiết cuốn thư, cành hồng, những dây tua, hạt cườm.

Nếu như y môn phía đông có trúc, mai hóa thành long tài tình, thì ở cặp y môn phía tây có tùng, có trúc, có cảnh "tam lân hí cầu" (ba con lân vờn cầu), rồi quy, phượng, bình hoa, đỉnh thờ. Nghệ nhân đã triển khai trên một bố cụ linh hoạt, phóng khoáng, các hoa lá trên giải y môn không cứng nhắc, luôn phải đăng đối, các khuôn trang trí cũng không nhất thiết phải hoàn toàn giống nhau nhưng nhìn chung, các mảng chạm khắc ở các bộ phận giữ được tính thống nhất cao của tổng thể, rõ nhất là ở nguyên tắc đối xứng sao cho thật hài hòa.

Chín bức đại tự, tám đôi câu đối ở chùa đều được gia công nghệ thuật, thể hiện qua một số riềm trang trí, một số làm nền gấm.

Tượng pháp Chùa Bạch Liên được bảo tồn khá cẩn thận nên giữ được khá đầy đủ. Ba pho tam thế trên cùng, ngồi trên tòa sen được khắc họa kỳ công, thể hiện ba biểu tượng của thế giới phật, ở cuộc đời tu hành từ quá khứ, hiện tại đến sau này. Tượng A di đà đặt ở vị trí thấp hơn, nhưng lại to hơn, bao trùm hơn, cao tới 2m. Nghệ nhân tạo pho này đã tính toán kỹ tính cân đối từ hình khối, y phục, bộ thờ, tòa sen. Các tượng Quan thế âm Bồ Tát, Đại thế chí Bồ Tát, Diệu thiện là những tượng thuộc dạng lớn, cao tới 1,1m (không kể bệ), dù ở tư thế ngồi tĩnh toạ hay "bắt quyết" đều được chạm nhấn rất đẹp, vừa thể hiện nội tâm vừa thể hiện tư thé đường bệ trên tòa sen nở rộ, các cánh sen đều rất trau chuốt.

Tòa Cửu long bằng đồng, cao 1,6m, rộng 1,4m có hơn 50 pho tượng, biểu tượng của 5 quá trình tu hành của Thế Tôn Màu Ni (từ sơ sinh, quá khứ, hiện tại, vị lai đến cõi niết bàn) bao gồm các pho bồ tát, kim cương, thị giả… Các pho tượng đang biểu diễn dàn nhạc sáo, nhị. Mỗi pho một cá tính, nhân cách khá nhau, nhưng dù tượng đứng hay tượng ngồi đều có nghệ thuật tạo dáng, tạo thế rất điêu luyện.

Ngoài ra các pho tượng như Ngọc hoàng ngồi trên long ngai cũng được tạo vẻ uy ghi, tượng Thánh tăng có khuôn mặt xương xương, nếp áo, tà áo rất sinh động. Tượng Đức ông mang vẻ oai vệ, nghiêm khắc song vẫn thể hiện nét từ bi, áo mũ được tô điểm kỳ công. Hai pho tượng "hộ pháp" cao 2m ngồi trên mình thú rất oai phong, phần điện và trang phục diễn tả thật sinh động. Như vậy, tượng pháp của Chùa Bạch Liên ngoài ưu điểm được bảo tồn khá tốt còn có một điều đáng tự hào là đã giữ được ba chủng loại tượng được tạo nên từ ba chất liệu khá nhau, thể hiện trình độ nghệ thuật cao: nghệ thuật đúc tượng đồng, nghệ thuật tạc tượng gỗ, nghệ thuật đắp tượng đất.

Chùa Bạch Liên còn có một số đồ thơ tự có giá trị như đôi khám thờ ở hai gian phía đông và phía tây tòa tiền đường. Đây là loại khám lớn cao khoảng trên 2m, dài 1,7m, rộng 1,2m. Khám được thiết kế hai tầng, được gia công nghệ thuật qua các mảng chạm. Đố và bệ khám được chạm khắc rất kỹ. Cột khám được thể hiện bằng hoạ tiết rồng uốn lượn, leo trên cột rất sống động. Một bát hương bằng đồng cao 35 phân, đường kính 32 phân, tuy là dạng bát hương vại, nhưng trang trí tỷ mỉ, công phu, miệng bát hương có viền gờ nổi, chỉ nổi, chân bát hương đúc theo kiểu chân quỳ dạ cá, nổi bật các hoạ tiết "lưỡng long chầu nguyệt", dưới là lá lật, sóng nước và hình ảnh con rùa phun nước.

Đặc biệt Chùa Bạch Liên có một chiếc khánh bằng đồng cao 1m, rộng 1,25m, dài 2 phân. Khánh có chữ "Tự đức thấp tứ niên tuế thứ Tân dậu cửu nhật nguyệt cải trù", tức là khánh này được đúc lại ngày 9 tháng 9 năm Tân Dậu, niên hiệu Tự Đức thứ 14 (1860). Như vậy là tại Chùa Bạch Liên trước kia đã có khánh, không rõ lý do gì mà phải đúc lại. Khánh có bốn chữ lớn: "Tường Lân thôn khánh" nghĩa là khánh của thôn Tường Lân và 4 chữ ở mặt sau ghi: "Bạch Liên tự khánh", tức là khánh của chùa Bạch Liên. Đây là chiếc khánh đẹp từ dáng dấp uốn cong tới đường viền chạy quanh là hàng triện tàu đến phần dưới thân khánh là lớp lớp sóng gợn. Rốn khánh có mặt nguyệt nổi cao, xung quanh viền hạt cườm đều đặn, lại thêm các làn mây tản như các ngọn lửa thiêng bao bọc, bùng cháy. Phần chính diện còn có hoạ tiết hổ phù nổi, các hàng chữ tiến cúng. Nếu lấy dùi đánh vào núm khánh, sẽ có tiếng ngâm, reo vang xa trong trẻo.

Đồ thờ, tượng pháp chùa Bạch Liên được xêp đặt ở vị trí cân đối, hợp lý. Các bệ thờ được làm cao dần, lại vừa phải, đã góp phần làm tăng thêm vẻ uy nghi, lộng lẫy, cũng như việc bài trí tượng pháp thể hiện tính thẩm mỹ cao.


Theo Cổng TTĐT tỉnh Hà Nam


Đền Vũ Điện, còn gọi là Đền Bà Vũ, miếu vợ chàng Trương, thuộc thôn Vũ Điện, xã Chân Lý, huyện Lý Nhân, Hà Nam.
Đền Vũ Điện nằm ngay sát ven bờ sông Hồng ở phía bắc xã Chân Lý. Từ thị xã Phủ Lý theo đường 62 về thị trấn Vĩnh Trụ, đi tiếp ra Cầu Không, rẽ trái lên Vũ Điện theo đường Phú Trạm là đến di tích.
Đền thờ bà Vũ Thị Thiết, người con gái phủ Nam Xang đã sớm được chép vào sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Chuyện kể rằng, ở trang Vũ Điện, phủ Nam Xang có một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết, vợ chàng Trương sinh là người cùng làng. Mới lấy nhau được ít lâu thì chàng Trương phải ra trận dẹp giặc. Nàng sinh được một đứa con trai tên là Đản. Để dỗ con, tối đến, nàng chỉ lên cái bóng trên vách và bảo với con đó là bố. Khi Trương Sinh trở về, đứa bé không chịu nhận bố, nói rằng có một ông bố khác tối mới đến chơi. Trương Sinh ngờ vực vợ có tư tình với ai thì lửa giận bốc lên ngùn ngụt, mắng nhiếc vợ thậm tệ, không để vợ giãi bày. Nàng Vũ ôm mỗi oan không thể tỏ bày ra sông tự vẫn.
Tối đến, thấy con chỉ cái bóng trên vách bảo đó là bố, Trương Sinh mới biết mình nhầm, hối không kịp nữa. Chàng lập đền giải oan cho vợ ở bến sông, nơi nàng vừa tự tận. Dân làng thương tiếc người con gái nhân hậu của quê hương cũng lập đền thờ nàng. Ngôi đền rất linh thiêng.
Tương truyền, đền bà Vũ đã từng âm phù cho đại quân của vua Lê Thánh Thông thắng trận. Khi đại quân khải hoàn, nhà vua xuống chiếu cho quan dân địa phương Vũ Điện sửa lại ngôi đền khang trang hơn. Thuyền bè qua lại vùng sông nước này thường đến lễ ở đền bà để xin bà phù hộ cho thuận buồm xuôi gió. Ngôi đền linh thiêng với câu chuyện thương tâm của bà Vũ đã từng là đề tài cho biết bao thi nhân như Lê Thánh Tông, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến…

Những lời thơ của các thi nhân đã nói hộ lòng thương tiếc, ước muốn giải oan cho người phụ nữ chịu nhiều đau khổ, mối đồng cảm sâu sắc của người đời đối với nỗi oan trái hãy còn dằng dặc ở trên đời và lòng ngưỡng mộ đối với moọt tấm gương trinh liệt. Phải chăng vì thế mà ngôi đền thờ bà đã và vẫn sẽ còn có sức thu hút mối quan tâm của nhiều vãn khách xa gần.

Theo truyền thuyết của người dân địa phương thì ngôi đền này được xây dựng từ thế kỷ XV, ngay sau cái chết oan uổng của bà Vũ. Ban đầu chỉ là ngôi miếu nhỏ nứa lá tranh tre do dân địa phương dựng nên. Sau khi có chiếu của vua Lê Thánh Thông, ngôi miếu mới được sửa lại thành một ngôi đền bề thế, khang trang. Ban đầu, ngôi đền được xây dựng ngoài bãi ven sông Hồng, trên một bãi đất rộng mấy chục mẫu, dân cư sống thành làng. sau vì nước lũ xói mòn, bãi bị lở nên đền phải dời vào vị trí như hiện nay.
Đền áp sát vào khu vực đê bối ven sông Hồng. Bốn cột đồng trụ xây ngay trên mặt đê, mặt quay ra sông theo hướng Bắc, cao vượt tầm những cây cổ thụ xung quanh. Sân đền nằm dưới chân đê bối, phải qua 6 bậc mới xuống được. Giữa hai cột đồng trụ là cổng chính, hai bên là hai cổng phụ tấm mái cửa vòm. Đền được kiến trúc theo kiểu chữ tam khép kín, đằng trước là 7 gian tiền đường với hệ thống vì kèo biến thể giá chiêng chồng rường con nhị.

Công trình này trốn cột, các xà đều gác lên tường. Hai đầu hồi bít đốc, mái lợp ngói nam. Ba gian giữa có hệ thống cửa gỗ lim bức bàn, phần trên cửa là chấn song con tiện. Khu trung đường làm cao lên hẳn theo kiểu chồng diêm gồm hai tầng mái, mỗi lớp 4 mái có đao góc uốn cong, mái được lợp bằng ngói vẩy. Mặt trước ba gian chính tẩm là hệ thống cửa bức bàn. Công trình được khép kín bởi hai dãy nhà 3 gian nối khu chính tẩm với khu trung đường, dãy nhà 3 gian ở phía tây khu trung đường và bức tường xây phía đông khu trung đường nối với tòa tiền đường. Ngôi đền chắc chắn đã trải qua nhiều lần trùng tu, hiện nay đền mang phong cách kiến trúc của thế kỷ XIX.
Đền còn giữ lại được một số hiện vật quý. Chẳng hạn ở đây còn giữ được chiếc khánh thời Lê Trung Hưng, nó được đúc vào năm Kỷ Mão niên hiệu Chính Hòa năm thứ 20 (1699), quả chuông đồng đúc vào thời Tây Sơn, năm Cảnh Thịnh cửu niên (1801), pho tượng đồng tạc bà Vũ không rõ niên đại.

Theo Cổng TTĐT tỉnh Hà Nam


Đình Quyển Sơn thuộc thôn Quyển Sơn, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam là một trong những di tích truyền thống nổi bật của tỉnh Hà Nam. Quyển Sơn có đền Trúc thờ Hoàng hậu và Công chúa từ lâu đời. Lưu truyền điển tích rằng: Khi Lý Thường Kiệt đem quân đi chinh phạt giặc phương Nam vào năm 1069, đoàn chiến thuyền đi theo sông Đáy, qua trại Canh Dịch (nay là thôn Quyển Sơn, xã Thi Sơn) thì gặp một trận gió lớn cho nên ông phải cho thuyền ép vào chân núi để tránh gió. Trận cuồng phong này đã bẻ gãy cột buồm và cuốn luôn lá cờ đại lên đỉnh núi. Thấy điều lạ, Lý Thường Kiệt cho quân sĩ dừng lại dưới chân núi rồi cùng tướng lĩnh lên bờ sửa lễ tế trời đất cầu mong chiến thắng. Ông đặt đàn tế trong rừng trúc, gần ngôi đền thờ hai mẹ con bà hàng nước. Nửa đêm, hai mẹ con bà hiện lên báo mộng, xin cùng đi theo phù ông đánh giặc. Từ đó ông đặt tên núi là núi Quyển Sơn (núi Cuốn) và trại Canh Dịch cũng được đổi thành làng Quyển Sơn. Lần ra quân ấy, Lý Thường Kiệt đã chỉ huy đại quân thắng lớn. Sau chiến thắng, trên đường về kinh đô, khi qua vùng núi cũ, nhớ lời cầu nguyện năm xưa, ông cho dừng quân, hạ trại bên rừng trúc lễ tạ âm thần, giết trâu mổ bò làm lễ tạ trời đất và khao thưởng ba quân, mở hội mừng chiến thắng, mời dân làng tham dự và xin Vua phong bà hàng nước là Mẫu hậu, cô con gái là Công chúa và sửa sang lại đền thờ. Có ân với dân làng nên khi Lý Thường Kiệt mất (năm 1105), nhân dân Quyển Sơn đưa ông vào thờ ở đền Trúc rồi suy tôn ông là Thành hoàng làng thờ tại đình vào thế kỷ thứ XVII.
Hai trụ biểu cổ
Năm 1948, đình bị tàn phá do chiến tranh, chỉ còn lại 2 trụ biểu cổ và 24 bộ đá tảng to lớn còn nguyên trên nền đình.
Từ năm 2001, được họa sỹ, nhà lịch sử mỹ thuật Nguyễn Văn Chiến, họa sỹ khảo cổ học Nguyễn Sơn Ca cùng Ban Khôi phục xây dựng đình làng sưu tầm những chứng tích và 33 sắc phong từ năm Vĩnh Tộ thứ 6 triều Vua Lê Thần Tôn (năm 1624) đến năm thứ 9 Vua Khải Định (năm 1925) nhằm xây dựng lại đình.
Xây dựng đình mới
Năm 2007, chính quyền và nhân dân địa phương đã cùng nhau xây dựng, tôn tạo lại đình và sẽ hoàn thành vào cuối năm 2009, góp phần tạo nên nét đẹp văn hóa tín ngưỡng của nhân dân địa phương./.



Theo Cổng TTĐT tỉnh Hà Nam

Đình Lũng Xuyên (Còn gọi là đình Gạo) thuộc thôn Lũng Xuyên, xã Yên Bắc, huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam. Đình thờ Lý Thường Kiệt với ý nghĩa đây là địa điểm mà ông cùng các binh sĩ của ông thường nghỉ lại mỗi khi đi đánh trận qua. Gắn liền với các truyền thuyết của địa phương về sự kiện trên với các địa danh còn lại như ao Vua, đường Quan Nha, đống Cả, đường Voi.

Đình Lũng Xuyên (Còn gọi là đình Gạo) thuộc thôn Lũng Xuyên, xã Yên Bắc, huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam.

Đình thờ Lý Thường Kiệt với ý nghĩa đây là địa điểm mà ông cùng các binh sĩ của ông thường nghỉ lại mỗi khi đi đánh trận qua. Gắn liền với các truyền thuyết của địa phương về sự kiện trên với các địa danh còn lại như ao Vua, đường Quan Nha, đống Cả, đường Voi.

Đình Lũng Xuyên toạ lạc trên một khu đất cao ở đầu làng sát trục đường giao thông liên xã nên rất thuận lợi cho việc đi lại, mặt tiền nhìn hướng nam, phía trước là cả một cánh đồng lúa nên tạo cảnh quan thoáng đãng.

Đình xây dựng theo kiểu chữ đinh, tiền đường 5 gian hậu cung 3 gian, mái lợp ngói nam. Nghệ thuật trạm khắc ở đình Lũng Xuyên được thể hiện với các đề tài: long cuốn thuỷ, long vân hội tụ, mẫu long giao tử, các cảnh tùng, lộc, mai, trúc, cúc hoá long…

Thôn Lũng Xuyên quê hương của đồng chí Nguyễn Hữu Tiến với ngôi đình làng Lũng Xuyên là cái nôi cách mạng của tỉnh Hà Nam, đã chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử trọng đại, chứng kiến sự phát triển của cách mạng trong những năm chuẩn bị thành lập Đảng và những năm chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền gắn với tên tuổi đồng chí Nguyễn Hữu Tiến, người cộng sản kiên cường bất khuất.

Sự kiện lịch sử trọng đại nhất là tại đình Lũng Xuyên năm 1927 đã chứng kiến một cuộc họp thành lập chi bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đầu tiên của tỉnh Hà Nam. Đồng chí Trần Tử Yến thay mặt kỳ bộ Bắc Kỳ công nhận chi bộ Hà Nam gồm 3 đồng chí: Nguyễn Hữu Tiến, Vũ Văn Uyển và Trần Tử Yến là đảng viên của chi bộ.

Sau sự kiện lịch sử trọng đại này nhiều tổ chức quần chúng như Hội tương thế, Hội hỷ, Hội bóng đá được thành lập thu hút hầu hết thanh niên ở Lũng Xuyên tham gia thường xuyên tổ chức sinh hoạt tại đình làng.

Tại đình làng đồng chí Nguyễn Hữu Tiến đã lấy nơi đây để dạy chữ quốc ngữ cho trẻ em và phụ nữ với biệt danh là giáo Hoài.

Tháng 11-1929 tại đình Lũng Xuyên đã tổ chức thành lập chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng gồm 6 đảng viên. Đồng chí Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Doãn Chất, Vũ Uyển, Nguyễn Văn Trạc, Phạm Tô, Phạm Văn Bình, đồng chí Nguyễn Hữu Tiến được cử làm bí thư chi bộ.

Năm1929 nhóm cộng sản đã cắm cờ đỏ búa liềm của Đảng trên cây gạo của đình làng.

Cùng với đình Lũng Xuyên các cơ sở khác trong thôn đã ghi những dấu ấn trong thời kỳ Đảng ta ra đời.

Tháng 9-1930 tại nhà đồng chí Nguyễn Văn Trạc ở Lũng Xuyên đã diễn ra hội nghị thành lập Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Hà Nam. Hội nghị cử ra Ban Tỉnh uỷ lâm thời gồm 3 đồng chí (Lê Công Thanh, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Duy Huân), đồng chí Lê Công Thanh được cử làm Bí thư.

Năm 1931 Lũng Xuyên trở thành cơ sở cách mạng vững mạnh của huyện và tỉnh Hà Nam, trở thành trụ sở hoạt động của cơ quan lãnh đạo của tỉnh, là cơ sở an toàn để cán bộ Xứ uỷ, tỉnh uỷ qua lại thường xuyên.

- Cơ quan ấn loát của Đảng được đặt tại nhà đồng chí Nguyễn Hữu Tiến.

Hậu cung đình làng là nơi cất giấu tài liệu của Đảng, hai bên dải vũ tổ chức cắt bán thuốc bắc để làm nơi theo dõi nắm bắt tình hình địch và cũng là làm kinh tế để lấy tiền hoạt động.

Tháng 11-1931 hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Nam họp tại nhà ông Chưởng có đại biểu của xứ uỷ và 13 đại biểu của các huyện thị tham dự. Hà Nam đã bầu ra Ban Tỉnh uỷ chính thức gồm 7 đồng chí, đồng chí Nguyễn Hữu Tiến được cử làm công tác tuyên truyền của Đảng bộ.

Trong thời kỳ khởi nghĩa giành chính quyền tại đình Lũng Xuyên lại liên tiếp xảy ra các sự kiện lịch sử:

- Ngày 15 và ngày 16 -8-1945 một cuộc họp cấp tốc của ban cán sự tỉnh Hà Nam được họp tại nhà bà Gái để bàn kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh.

- Đêm ngày 19-8-1945 lực lượng chính của cách mạng tập trung ở đình Lũng Xuyên để chờ lệnh xuất phát.

- Sáng sớm 20-8-1945 tại sân đình Lũng Xuyên 3 tiểu đội vũ trang của huyện đã làm lễ tuyên thệ trước cờ Tổ quốc và tiến quân khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn huyện thắng lợi.

Lũng Xuyên - Mảnh đất cách mạng của tỉnh Hà Nam luôn tự hào về truyền thống quê hương. Nơi sân đình đã tiễn đưa biết bao người con của quê hương lên đường bảo vệ Tổ quốc va cũng không ít người đã hy sinh vì quê hương đất nước.

Biết ơn nhà cách mạng tiền bối, Đảng bộ và nhân dân Duy Tiên đã xây dựng nhà lưu niệm đồng chí Nguyễn Hữu Tiến ngay trên mảnh đất đã gắn bó tuổi thơ với những năm tháng hoạt động cách mạng của đồng chí. Ngôi nhà lưu niệm được xây dựng trên nền nhà cũ gồm 4 gian khang trang sạch đẹp. Hiện tại nhà lưu niệm để cho bà Nguyễn Thị Xu là con gái của đồng chí Nguyễn Hữu Tiến ở và hương khói cho đồng chí. Đồng thời cũng để đón các đoàn khách tới tham quan thắp hương tưởng niệm .

Trong những năm qua ngôi đình lịch sử và nhà lưu niệm đồng chí Nguyễn Hữu Tiến đã đón nhiều đoàn khách của Trung ương, của Tỉnh, của Huyện. Các lớp học ngoại khoá, lớp đối tượng Đảng của huyện, tỉnh đều về đây tham quan nghe giới thiệu lịch sử và thắp hương tưởng nhớ đồng chí Nguyễn Hữu Tiến . Đình Lũng Xuyên - cũng là nơi lấy lửa truyền thống cho hội trại, hội thi của huyện Duy Tiên. Thôn Lũng Xuyên - đình Lũng Xuyên ngôi nhà lưu niệm đồng chí Nguyễn Hữu Tiến là điểm du lịch lịch sử có ý nghĩa xủa huyện Duy Tiên nói riêng và tỉnh Hà Nam nói chung.



Theo Cổng TTĐT tỉnh Hà Nam

Đình Triều Hội thuộc xã Bồ Đề, huyện Bình Lục là nơi thờ cúng hai vị thành hoàng làng. Một vị là Cao Mang tôn thần, tướng tài nhà Trần và một vị là Trần Xuân Vinh đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ được bố làm quan dưới triều vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức. Thần phả của hai vị thần nay đã thất lạc, song dân làng vẫn truyền tụng câu chuyện kỳ là về vị tiến sĩ đời Lê Trần Xuân Vinh.

Truyền thuyết kể lại rằng, sau khi đỗ tiến sĩ, trên đường về thăm quê bằng đường sông Châu, thuyền của ông và cha mẹ ông đều bị lật, cả nhà bị chết đuối, xác ông trôi vào Bãi  Nhót. Dân lập một ngôi miếu nhỏ để thờ ông. Ngôi miếu rất linh thiêng nên dân làng đã xin chân nhang về lập đình thờ ông làm thành hoàng. Như vậy, theo truyền thuyết và theo suy luận logic thì vị thần Cao Mang đời Trần chắc đã được thờ từ trước, sau khi có miếu thờ vị tiến sĩ triều Lê thì lập đình cùng phối tự hai vị thần này.

Đình Triều Hội được kiến trúc theo kiểu chữ tam: tiền đường năm gian, cung đệ nhị năm gian và chính tẩm ba gian. Ngôi đình đã được tu bổ nhiều lần và trên thượng lương có ghi một lần tu sửa vào niên hiệu Thiệu Trị thứ sáu. Tiền đường năm gian, được lớp bằng ngói nam, bờ nóc được đắp lưỡng long chầu nguyệt. Bộ khung cửa đình được dựng bằng gỗ lim. Nền nhà được lát bằng gạch chỉ soi ống tơ đúng với phong cách cổ kinh của đình làng Việt Nam. Bộ cửa được làm theo kiểu bức bàn, trên song dưới lùa. Cung đệ nhị được sửa chữa nhiều lần, chạm khắc chỉ còn lại trên các câu đầu, xà nách 4 kẻ với các mô típ hoa văn cách điệu đơn giản. Chính tẩm 3 gian được thiết kế bằng gỗ lim như tòa tiền đường tuy chạm khắc ở đây không cầu kỳ bằng.

Đình Triều Hội được xếp hạng di tích lịch sử vì nơi đây đã diễn ra cuộc biểu tình tuần hành thị uy của nông dân trong vùng vào ngày 20/10/1930. Cuộc tuần hành này nhằm phát động quần chúng đấu tranh đòi bãi bỏ hội đồng cải lương, đòi giảm sưu thuế, ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh và cuộc đấu tranh của nông dân Tiền Hải, Thái Bình. Xã Bồ Đề được chọn làm địa điểm cuộc biểu tình đó vì Tỉnh ủy Hà Nam nhận định, nơi đây chẳng những phong trào vững mà còn là nơi tiếp giáp 3 huyện Bình Lục, Lý Nhân, Mỹ Lộc nên có thể tập trung phát huy thanh thế.

Thời gian của cuộc biểu tình được ấn định vào ngày 20/10 vì đó là phiên chính của 3 chợ Bồ Đề, Thành Thị và An Ninh. Đúng 7 giờ sáng, tiếng trống ở đình Triều Hội vang lên, cờ đỏ búa liềm tung bay, những người tham gia biểu tình đóng giả người đi chợ bắt đầu đứng vào hàng ngũ. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Hà Nam và Huyện ủy Bình Lục, đoàn biểu tình đi đến những điểm quy định như Điếm Tống, chợ Đồn (An Ninh), Ba Hàng (Thành Thị), vừa đi vừa diễn thuyết, phát truyền đơn kêu gọi mọi người vùng dậy đấu tranh chống đề quốc phong kiến, chống khủng bố đánh đập, ủng hộ Xô Viêt Nghệ Tĩnh. Đoàn biểu tình ngày một đông, xuất phát từ chợ Bồ Đề 300 người đến chợ Vạc (An Ninh) đã lên tới hàng nghìn người.

Trước khi thế cách mạng ngùn ngụt của cuộc biểu tình, bọn địa chủ, cường hào, tay sai của thực dân Pháp rất hoảng sợ. Đến 12 giờ trưa, các đồng chí lãnh đạo quyết định làm mít tinh tại chợ Vọc rồi giải tán. Cuộc biểu tính thắng lợi hoàn toàn. Thắng lợi của cuộc biểu tình là thắng lợi chính trị quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến phong trào đấu tranh chính trị trong tỉnh và trong cả nước. Sự kiện này đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy là một chứng minh về tinh thần và khả năng cách mạng của nông dân Việt Nam trong thư báo cáo với Quốc tế nông dân ngày 5 tháng 11 năm 1931.





Theo Cổng TTĐT tỉnh Hà Nam

Đình Văn Xá thuộc thôn Văn Xá, xã Đức Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, một ngôi đình có niên đại sớm nhất ở Hà Nam còn lại đến nay và cũng được xếp hạng sớm nhất từ năm 1962. Đình quay hướng chính Nam đúng trục của trời đất (Bắc - Nam, Đông - Tây), toạ lạc trên một khu đất cao ở giữa làng, không gian thoáng đãng.


Đình Văn Xá thuộc thôn Văn Xá, xã Đức Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, một ngôi đình có niên đại sớm nhất ở Hà Nam còn lại đến nay và cũng được xếp hạng sớm nhất từ năm 1962. Đình quay hướng chính Nam đúng trục của trời đất (Bắc - Nam, Đông - Tây), toạ lạc trên một khu đất cao ở giữa làng, không gian thoáng đãng. Xưa kia đây là khu rừng rậm, cây cối um tùm. Trước đình là hồ nước có diện tích 9800m vuông, ao đình và đặc biệt hai bên đầu Đông, Tây đại đình có hai giếng nhỏ là hai mắt rồng, trong đó có giếng phía tây là “giếng thiêng” gắn liền với truyền thuyết về nhân vật thờ ở địa phương.

Miếu thiêng có giếng thông thư

Quả bòng cẩn kín tin đưa đi về…

Sông Hồng, sông Long Xuyên, sông Châu chảy qua đất Lý Nhân, nhìn trên bản đồ bao bốn mặt ngôi đình như là tứ giác nước mà đình Văn Xá là não thuỷ.

Đình Văn Xá thờ 4 vị thần: Thánh phụ hiệu: Cao Minh linh thuý huý là Cao Văn Phúc, Thánh mẫu huý là Từ Văn Lang, Cao Minh linh ứng huý là Câu Mang huynh và Cao Minh linh nghiệm huý là Câu Mang đệ.

Thánh phụ nguyên phát tích ở xã Văn Lâm (Thanh Liêm) vào thời vua Lý Thái Tổ (1010-1028), tính tình khoan dung, độ lượng song nhà nghèo khổ sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, mò cua, bắt cá. Thánh mẫu quê ở xã Văn Xá (Lý Nhân) đức hạnh thuần hoà, nhà nghèo quanh năm mò cua, bắt ốc sinh nhai. Hai người gặp nhau cùng chung cảnh ngộ nên duyên vợ chồng, một mối tình đẹp của bao đôi lứa người Việt. Khi trời đất giáng hoạ dịch bệnh hoành hành không người cứu giúp, Thánh phụ, Thánh mẫu đã hiển ứng gọi gió, mây mưa làm thuốc cứu dân. Thánh mẫu còn giúp triều đình vua Lê Thái Tổ niên hiệu Thuận Thiên (1428-1433) dẹp loạn cướp bóc cho quốc thái dân an. Khi các vị hoá, triều đình ban sắc phong, dân xã lập đền miếu phụng thờ để ghi nhớ ơn đức với dân với nước.

Dọc hai bờ sông Châu và sông Long Xuyên (con sông cổ của huyện Lý Nhân) có nhiều di tích thờ Câu Mang thuỷ thần như Mạc Hạ (Công Lý), đình Tróc Nội (Nhân Đạo), Phú Khê (Bắc Lý), Vạn Thọ (Nhân Bình), Thượng Nông, Hạ Nông (Nhân Nghĩa). Song thuỷ thần Câu Mang ở những di tích đó đều sinh ở thời Hùng Vương do người mẹ đi tắm, giao long quấn vào người từ đó mang thai. Vua sai ngài đi trị thuỷ, đi đến đâu viết thư bắn xuống thuỷ cung tức thì nước rút hết. Ngài còn có công cùng Tản Viên Sơn Thánh đánh tan quân xâm lấn bằng hai đường thuỷ bộ, được phong là Cao Mang Đại Vương Thượng đẳng phúc thần. Truyền thuyết về hai vị Thuỷ Thần được thờ ở đình Văn Xá hoàn toàn khác, Thánh phụ, Thánh mẫu đi kiếm ăn trên sông Trung Hà thuộc đất An Bài (Bình Lục) vớt được hai quả trứng trắng nổi trên mặt nước giữa sông mang về nhà nấu không chín đập không vỡ. Một trăm ngày sau nở ra một đôi Bạch Xà trên đầu có chữ Vương, dưới bụng có chữ Câu Mang huynh và chữ Câu Mang đệ. Hình ảnh quả trứng này có ý nghĩa triết lý sâu sắc. Phải chăng là quả trứng tiên thiên thái cực vô sinh vô diệt, vô nguồn sinh ra muôn loài. Nó lại làm ta liên tưởng đến việc sinh trăm trứng của bà Âu Cơ. Khi nước sông dâng to, đê vỡ, các vị đã hiện về, đầu gối bên này, đuôi chạm bên kia nằm chặn ngang dòng nước chảy, Trấn quan coi đê cùng dân làng thừa kịp hộ đê. Đó là một hành động kỳ vỹ, biểu hiện ước mơ làm những việc phi thường của người dân lao động xưa.

Mặc dù hệ thống cột đồng trụ, hai cổng phụ, bình phong, tường bao mới được xây dựng những năm gần đây và hậu cung ba gian dài 11m, rộng 5m xây dựng bít đốc dập cấp, thức kiến trúc chồng rường, bẩy tiền, kẻ hậu…được dựng thêm vào thời Nguyễn về sau tạo thành bố cục mặt bằng hình chữ Nhị, song những công trình đó vẫn hài hoà với kiến trúc cổ của toà đại đình. Ban đầu đình Văn Xá chỉ có một toà Đại đình cò được thờ bằng sàn gỗ? Dấu tích còn lại là những lỗ mộng ở hai cột cái phía trong gian giữa.

Toà đại đình đình Văn Xá là một công trình kiến trúc nghệ thuật có quy mô lớn, bảo tồn được những yếu tố nguyên gốc về kiến trúc, điêu khắc, đồ thờ cổ thư đậm đà phong cách đầu thế kỷ XVII.

Đại đình có chiều dài 21m, lòng rộng 8,8m, ba gian hai chái bốn mái cong, lợp ngói nam. Trải qua nhiều đợt trùng tu với nhiều loại ngói khác nhau song toàn bộ mái trước đình vẫn giữ được loại ngói mũi hài độc đáo, mỗi viên có chiều dài 40cm, rộng 29cm, có viên nặng từ 9 đến 11kg. Mũi ngói trang trí hoa cúc cách điệu cùng văn xoắn, đao mác. Có lẽ duy nhất đình Văn Xá có loại ngói này.

Hãy hình dung mấy trăm năm trước đồng nước mênh mông thì đình Văn Xá lật ngược lại giống như một con thuyền to lớn vững chãi uy nghi và rất đẹp bồng bềnh vừa thách thức lại vừa bay bổng. Tỷ lệ vàng giữa thân và mái: thân 1/3, mái 2/3 là tỷ lệ của người Việt cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII. Hiện nay trên cả nước rất ít những ngôi đình cùng niên đại còn giữ được tỷ lệ này như đình Văn Xá. Tiếp giáp giữa sân, qua hiên vào gian giữa (gian của thần) tới gian thờ được lát bằng đá tấm, đình Văn Xá còn lưu giữ được. Để thông ân dương nền của đình, đền, chùa ngày xưa phổ biến là nền đất đầm kỹ. Song hình Văn Xá xử lý theo cách riêng như đã nêu. Đá - sản phẩm của tự nhiên người xưa cho là sản phẩm của vũ trụ, trường tồn qua thời gian, dù rằng có câu: “nước chảy đá mòn” mang ý nghĩa khác hẳn. Đây cũng là một nét độc đáo nữa của đình Văn Xá. Bộ khung chịu lực của toà đại đình bằng gỗ lim già có 6 vì, mỗi vì có 4 hàng chân cột đều được kê trên chân tảng đá xanh vuông 1,2m, mặt nổi gương tròn, xung quanh tạo thành cánh xen cách điệu. Cột cái có chu vi 2,5m, cao 4,m. Cột chân có chu vi 1,25 cao 2,7m. Bốn cột góc cao 3,3m. Bộ khung ấy thấp khoẻ, cột đúng nghĩa “to như cột đình” bám chặt vào đất tảng nền của cư dân nông nghiệp luôn khao khát mở rộng đất đai. Không chỉ có thế, đất đình Văn Xá tuy không còn rộng như xưa nhưng nay vẫn còn bao quanh hai bên phía sau đình. Với người Việt xưa quá trình mở đất là ở phương nào có thể và chỉ dừng lại trước biển cả. Đình Văn Xá ánh xạ lịch sử là ở chỗ đó.

Thức kiến trúc cả bốn vì (gian giữa và hai gian bên) theo kiểu “giả” giá chiêng, chồng rường, mê cốn, kẻ, đầu kẻ “giả bẩy”. Hai vì trái kết cấu hài hoà giữa các hạng mục: trụ cái (cột trốn) câu đầu, kẻ góc, xà đùi, xà nách cùng 4 hàng con rường đỡ hành mái.

Vì nóc đình Văn Xá thể hiện lối giả giá chiêng, hai bên chồng rường. Đặc biệt, đội thượng lương là chiếc đấu hình thuyền cong ngồi trên lưng con rường bụng lợn. Đứng trên đấu thắt đáy có những hàng trụ trống cột, hai bên là hai ván bưng nhỏ. Từ thân cột sang hai bên  là hai con rường cụt, một đầu ăn mộng cột trốn, một đầu ăn mộng vào mái đỡ hoành. Câu đầu khá lớn, to mập, hai bên bào soi vỏ măng, nằm ngay trên một đỉnh đấu vuông thắt đáy trên đầu cột trái. Đuôi kẻ ăn mộng én vuông vào đầu cột cái nối qua đầu cột quân nhô ra ngoài (giả bẩy) đỡ mái hiên. Trên lưng kẻ là ván dong đỡ hoành. Đặc biệt ở 4 vì góc hai gian chái, mỗi gian có hai kẻ góc (kèo cổ ngỗng, kèo moi). Thường những năm về sau người ta cắt đi ở phần cột trốn, không đẩy lên thượng lương.

Chạm khắc trên kiến trúc được thể hiện ở hầu hết các cấu kiện (cả mặt trong lẫn mặt ngoài) với kỹ thuật trạm nổi kênh bong với nhiều đề tài khác nhau thể hiện bàn tay điêu luyện của các hiệp thợ, các nghệ nhân dân gian xưa. Mặt ngoài vì nóc gian giữa chạm nổi các hình văn xoắn lớn như ước vọng cho sấm chớp mây mưa để cầy cấy, mùa màng bội thu. Kế thừa và gìn giữ thức kiến trúc giữa thời Trần với thời Mạc, cột trốn mang hình thức đấu còn rất nhỏ, lá đề ở trung tâm. Trên mặt lá đề là hình tượng trang trí thống nhất một đề tài. Cột trốn như bị ẩn đi, bằng nghệ thuật chạm khắc từ thân cột trên sang hai bên là hai con rường cụt. Đường diềm kết hợp ở nhiều thân gỗ con rường.

Trên các bộ vì nóc, đề tài rồng chầu khá phổ biến, nhưng dưới nhiều hình thức khác nhau: rồng chầu lá đề, hoa cúc cách điệu, chầu thú. Kẻ ở các vì hơi cong có đường kính lớn tới 47cm được trạm hình rồng dữ tợn. Thân rồng được nhấn tỉa những đao nhọn. Đầu rồng vuốt ngược về phía sau như đang chuyển động. Phía sau là hình con ly đang nhảy múa. Thân kẻ trạm lá hoả, đường soi ống tơ mềm mại. Các cốn ở chái trạm khắc nền rồng đa dạng, điểm xuyết các bông cúc mãn khai cách điệu, lá lật, lá hoả, vân xoắn cầu kỳ tinh xảo.

Câu đầu ở các vì khá lớn, cân xứng hài hoà với cột cái. Lòng câu đầu trạm nổi hai hình dạng lá sòi kết hợp vân xoắn, hoa cúc cách điệu. Giữa câu đầu gắn ô vuông chém góc hình cánh sen. Ô vuông chém góc là sản phẩm của thế kỷ XVII, không phải là tư duy nông nghiệp mà là tư duy của kinh tế thương mại. Hiện tượng này gợi ý ở vùng này có dòng họ gắn với kinh tế thương thuyền. Ở các di tích dưới câu đầu gian giữa là đầu dư tạo hình đầu rồng, ở đình Văn Xá đầu dư được thay thế bằng ghé tạo hình ghê lấy vai gánh đỡ câu đầu, đây là điểm độc đáo ít gặp. Ở con rường thứ 3, mặt trong hai vì gian giữa chạm mỗi bên một con lân ở phía trên nhang án, mặt ngoảnh ra ngoài vẻ xét nét hàm ý kiểm tra tư cách và nội tâm của người vào lễ thánh. Ở mặt trong xà đùi hai gian chái và mặt ngoài đầu kẻ hiên ngang bên phải có bức trạm trúc hoá long điều này cũng khá quen thuộc, nhưng bất ngờ ở đây là trúc lại có hoa một điều chưa bao giờ có, vô lý nhưng lại có lý ở lối nhìn siêu thực với cảm quan và tâm lý người Việt xưa mong muốn điều khác thường tốt lành xảy ra, khao khát sinh sôi nảy nở những người tài giỏi ra giúp nước yên dân.

Hai gian trái đại đình, mỗi gian có hai kẻ góc. Một chiếc hình đầu rồng thân thu nhỏ về phía đuôi. Chiếc bên chạm hình đầu phượng, con thú nhỏ đang nô đùa. Hai chiếc kẻ chạy suốt từ thượng qua cột trốn xuống cột góc ra đầu góc đao lớn. Gánh đỡ góc đao trước và sau đầu hồi phía tây đình là hai con hổ với tư thế khác nhau một con trong tư thế ngồi chầu. Một con trong tư thế hai chân trước nắm bắt một con thú. Đây cũng là một nét độc đáo của đình Văn Xá. Có ý kiến cho rằng đó là do hai hiệp thợ, vì góc đao hồi phía tây chỉ để con guột nở xoè trực tiếp gối lên trụ tường. Lại có ý kiến: Theo truyền thuyết sau đại đình ngày xưa có một khu vườn rậm rạp cây cối um tùm như rừng. Một hôm có hai con hổ về ngồi chầu hai bên từ đó dân làng gọi là :“vườn Chầu”. Vì vậy các hiệp thợ chạm khắc hình hai con hổ gánh đỡ đầu đao để ghi lại điển tích. Dân làng còn làm hình tượng hai con hổ nằm phủ phục trong cũi gỗ để thờ hai bên chầu vào hậu cung và rước trong kỳ lễ hội “Đồng Văn” với xã Văn Lâm (Thanh Liêm).

Đình Văn xá là công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu độc đáo còn lưu giữ nhiều đồ thờ cổ thư quý hiếm mang phong các thời Mạc, hậu Lê hương án, long ngai, kiệu song loan, chúc văn, sập thờ…

Hiện vật sớm nhất là chiếc mâm gỗ đựng hoa quả hình bát giác sơn son thếp vàng được trạm khắc nhiều đề tài rồng chầu hoa cúc, rồng dáng, cánh sen dẹo mang giá trị trạm khắc thời Mạc (cuối thế kỷ 16). Mâm bày lễ vật dâng thần linh hàm chứa ý nghĩa dịch học (bát giác = bát quái).

Trong Hậu cung đình có một nhang án nhỏ dại 1,2m cao 0,6m được trạm hoa văn dày đặc trong các ô hộc. Các đường phân chia nổi khối thể hiện những khúc rồng. Trên xà đấu tại đôi rồng chầu hoa cúc, cuốn xung quanh xà, thân rồng rất dài đặc biệt rồng chạm nằm ngang nhìn thẳng chính trung tâm. Hiện tượng này xuất hiện từ trước, đặc biệt vào thời Lê sơ.

Sau ngày phổ biến trong trang trí kiến trúc và hiện vật ở kinh đô Phú Xuân thời Nguyễn ở Huế.

Cỗ kiệu song loan độc đáo, bành kiệu trạm nổi phù điêu đầu phượng. Thân kiệu trạm khúc hoá long, đuôi kiệu trạm hình đuôi Phượng, dáng đao bay về phía sau. Trên Long đình mặt trước và sau có hai bức trạm thông phong. Một mặt là hình Lưỡng Long chầu nguyệt, một mặt là hai con phượng chầu chữ thọ.

Đình Văn Xá ẩn chứa nhiều tín hiệu cần được đọc và giải mã từ Thành hoàng đến vị trí, không gian, kiến trúc, điêu khắc…Trên các góc độ lịch sử, xã hội, tín ngưỡng, mỹ thuật… Bài viết này chỉ giám nói đôi điều sơ khởi và thô thiển trên hành học hỏi, hiểu hành về một trường hợp cụ thể trong kho tàng văn hoa dân tộc.


Theo Cổng TTĐT tỉnh Hà Nam

Đền Lăng còn đươc gọi là đền Ninh Thái (Ninh Thái linh từ). Đền ở xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm, Hà Nam.


Từ Thị xã Phủ Lý xuôi theo đường 21 khoảng 7km, đến phố chợ Động, rẽ tay phải theo đường rải đá liên huyện 1km về đến thôn Côi, tiếp tục rẽ tay phải 1km sẽ tới Đền Lăng.

Đền Lăng thờ vua Đinh, vua Lê và Tam vị đại vương. Theo ngọc phả, truyền thuyết địa phương cùng nội dung khắc trên bài vị thờ tại chính tẩm thì vị vua thứ nhất được thờ ở đây là vua Đinh Tiên Hoàng có công dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước. Liêm Cần là nơi mà vua Đinh đã lập căn cứ tuyển quân, vừa là nơi huấn luyện quân sĩ. Theo nhân dân địa phương, vị trí đền thờ hiện nay chính là nơi đóng quân khi xưa của vua Đinh.

Đền Lăng còn là nơi thờ Lê Đại Hành và hai con của ông là lê Trung Tông và Lê Ngọa Triều. Tương truyền, Lê Hoàn quê gốc ở Tràng An nhưng đời ông nội của ông là Lê Lộc đã dời đến Liêm Cần, ở đây có dấu tích một khu đất bằng phẳng mà nhân dân địa phương kể đó là dấu nhà cũ của Lê Lộc. Nơi đây còn có núi Côi, tương truyền có địa danh Mả Dấu là nơi ông nội Lê Hoàn được hổ đưa vào an táng khi hổ nhận ra mình giết nhầm bố nuôi. Núi Côi tương truyền còn có đàn thề mà Lê Hoàn lập ra tế trời đất thề cùng nghĩa quân phù Đinh đồng thâm trừ mối loạn, thu giang sơn về một mối. Trên mảnh đất Bảo Thái, Liêm Cần này có mộ tổ họ Lê, nơi tương truyền từng có sinh từ xưa kia của Lê Hoàn.

Đền Lăng còn thờ Tam vị Đại vương. Ba vị đại vương đó là hai vợ chồng ông Nguyễn Minh tương truyền quê ở Bảo Thái, là tướng tài của Lê Hoàn, ra sức phù Đinh dẹp loạn và vị thứ ba là vị thần Thiên Cương đã báo mộng cho ông nên phù Đinh trừ loạn nước.

Đền Lăng hiện nay còn lại tòa tiền đường, cung đệ nhị và cung chính tẩm được trùng tu vào đời Nguyễn. Tòa tiền đường làm theo kiểu mái con chồng diêm và được dành nhiều mảng chạm khắc công phu nhất. Hệ thống cột cái, hệ thống câu đối ở đây tạo vẻ chắc khỏe và mềm mại cho tòa tiền đường. Ở hai vì gian giữa có lớp lớp các mảng phù điêu chạm rồng, ly, quy rất công phu. Trên trụ non đấu rế còn được tạo thành mâm ngũ quả với đào lựu sinh động. Một số mảng mê còn chạm rồng chầu, chim phượng và hoa cúc rất tinh tế. Để gánh 4 trụ non, thợ chạm tạo 4 con nghê ghé vai đội trụ một cách sinh động, không rập khuôn, gò bó. Điều đặc biệt là các đề tài dân gian được khắc hoạ một cách khéo léo. Trên vì phía đông, người thợ khéo thể hiện một con thú bên hồ sen trong tư thế dấu mình, lẩn trốn trong lá sen cách điệu. Còn vì bên kia là cảnh con hổ đang ôm một cái dó lớn, bên cạnh đó là một con hổ khác đang đeo chiếc giỏ ở cổ.

Phía trong tòa tiền đường là đệ nhị cung và chính tẩm. Hai cung này chung một tòa bốn gian rộng, thiết kế theo phong cách thượng gường hạ kẻ. Hệ thống cột chính gồm 10 chiếc làm bằng gỗ lim theo kiểu búp đòng, đầu cột thon ngậm xà, chân cột thu nhỏ để hợp với hệ thống chân tảng. Cửa cung cấm được thiết kế ngạch ngưỡng theo lối cổ, vừa cắt mòn vừa soi chỉ. Tòa tiền đường, cung đệ nhị và cung chính tẩm đều được lợp bằng ngói nam cùng với hệ thống giao góc, dấu trụ, bờ dải, bờ nóc khiến Đền Lăng tuy không còn đầy đủ như xưa nhưng vẫn còn giữ được vẻ cổ kính của một công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật.

Tất cả các cột của ba tòa đều được đặt trên chân tảng kích thước 50x50cm. Chân tảng đục nối gương tròn theo cấp để định vị chân cột, vừa là trang trí tôn nâng đại trụ làm cho đẹp công trình. Điều đặc biệt là tòa chính điện của tòa đệ nhị còn có bức cửa võng, vừa gắn với câu đầu, với cột cái. Công trình đục chạm công phu, tạo chương với cảnh lưỡng long chầu nguyệt tinh vi nghệ thuật, tạo riềm trên, riềm dưới, riềm hai bên với những băng lá sòi, những mảng long vân, phượng vũ có sức truyền cảm cao. Trung tâm cửa võng nổi bốn chữ "Thánh cung vạn tuế" trong khung tròn rất đẹp. Cửa võng được sơn son thiếp vàng màu sắc óng ánh, ấm áp giúp cho công trình thêm hấp dẫn.

Đền Lăng còn lưu giữ khá nhiều đồ thờ tự, các đồ thờ của đền Lăng đều mới được sơn son thiếp vàng theo phương pháp cổ truyền. Do vậy khi tới đây mọi người đều cảm nhận sự lộng lẫy, uy nghi bởi đồ thờ tại các cung chỉnh tẩm, đệ nhị và tiền đường. Trước hết phải kể đến chiếc ngai thờ đời Hậu Lê được chạm trổ công phu. Đây là chiếc ngai lớn quy cách 110x70x55cm có dáng khoẻ và chạm nổi, chạm thông phong ở tay ngai, sập ngai thật cầu kỳ đẹp mắt. Những con rồng uốn lượn theo thế long thăng ở trụ, những hàng rèm sen dẹo, lá sòi hay khắc vạch song song… đều được thể hiện rất tinh tế. Những khung chữ nhật, khung vuông hay đường nét phóng khoáng trên riềm ở lưng ngai đều được chạm thông gió hoặc kênh bong các cảnh tứ linh, lá và hoa thật tài tình.

Bốn chiếc long đình có từ thế kỷ XIX trong có bài vị long ngai thờ vua Đinh, 3 cha con vua Lê Đại Hành. Trong các long đình có bài vị, long ngai thờ vua Đinh, Lê Đại Hành và Trung Tôn, Ngọa triều đều vào cỡ lớn tới 170cm và được tạo đáng theo tỷ lệ cân xứng, đặc biệt là chạm nổi, chạm thông phong nhiều đề tài hoa, lá, long, ly, quy, phượng rất tinh tế. Những hiện vật thế kỷ XIX này còn phảng phất đường nét Hậu Lê, song dáng cao, các xà đố thanh thoát mang phong cách thời Nguyễn. Đây cũng là hiện vật đặc trưng giai đoạn chuyển hóa giữa hai nền văn hóa Hậu Lê-Nguyễn.

Ngoài ra ở đây còn đôi hạc thờ thời Hậu Lê, đối tượng người nô lệ, chiếc sập thờ và hòm sắc đời Nguyễn… Đôi hạc thờ đền Lăng cao 250cm cũng được tạo dáng sinh động, tư thế đứng chầu nghiêm túc, đôi cánh cụp sát thân, chiếc cổ cất cao chầu mà không cứng nhắc, chứng tỏ nghệ nhân đã kết hợp nhuần nhuyễn thực tế với cách điệu. Đáng lưu tâm hơn là lớp lớp lông cánh như lá hòa lại, như cài vào nhau rất tự nhiên. Trang trí trên đầu bờm gáy và cả bàn chân bám trên lưng rùa cũng được thể hiện một cách linh hoạt.

Hương án đặt tại cung đệ nhị quy cách 145x68x165cm còn tốt, thoáng nhìn thấy lộng lấy, nhìn kỹ mới thấy hết cái tinh túy, độc đáo mà tiền nhân để lại cho con cháu đời sau. Đây là loại hương án tạo sự kết hợp kết câu lồng hai phần trên và phần dưới vào nhau, phần trên gồm bao loan, mặt hương án, cổ, riềm cổ và phần trên của chân, được gia công rất khéo, khi lồng vào rất khớp với phần thân dưới. Điều đặc biệt là bố cục hoạ tiết rồng chầu mặt trăng cùng với băng cánh sen ở riềm mặt hương án rất ăn ý với mô típ lá chòi uyển chuyển và bố cục long vân, hổ phù ở riêm cổ hương án. Chân hương án làm nổi hẳn ra, chạm chữ thọ cùng họa tiết rồng bay thật tinh xảo, cầu kỳ. Phần thân thì tạo thành những ô hoặc vuông, hoặc chữ nhật, quy cách khác nhau. Nhiều đề tài điêu khắc tứ linh, hoa lá khác nhau nhưng đề tài nào cũng được thể hiện công phu. Ấn tượng chung về các mảng chạm khắc ở đấy là nhiều mà không rậm, không thừa, càng nhìn càng nhận ra sự tinh xảo trong nghệ thuật và kỹ thuật thể hiện.

Chiếc sập thờ ở chính tẩm là hiện vật của thời Nguyễn nhưng cũng là loại đồ thờ quý hiếm. Sập có quy cách 220x180x85cm làm theo kiểu chân quỳ, khoẻ mà không nặng nề, ít cầu kỳ nhưng rất đẹp. Bao loan ở bốn góc mặt sập tạo ô hoạ tiết đơn giản nhưng rất đẹp. Cổ sập  chạm nổi, chạm thông gió long hóa, tứ linh, chân sập tạo kiểu chân quỳ dạ cá với mây tản, lá lật cách điệu như bay, như cuốn, gây xúc cảm nhẹ nhàng cho người thưởng thức.

Ngoài ra, đền Lăng còn giữ được đôi quán tẩy thời Hậu Lê, đôi tượng người nô lệ và một số đồ thờ thời Nguyễn được chạm khắc tinh thế, sơn son thiếp vàng lộng lẫy.

Kiến trúc cũng như đồ thờ tự nơi đây tạo nên vẻ đẹp của Đền Lăng, một di tích lịch sử văn hoá của Thanh Liêm, Hà Nam. Những sản phẩm văn hoá thời Hậu Lê rất quý hiếm cùng với các đồ thờ tự thời Nguyễn của đền Lăng rất cần được giữ gìn cẩn thận.

Theo Cổng TTĐT tỉnh Hà Nam

Quần thể di tích thắng cảnh Bát cảnh sơn nằm ở xã Tượng Lĩnh, huyện Kim Bảng, Hà Nam.

Từ thị xã Phủ Lý, theo quốc lộ 22 đi 13km là đến quần thể danh thắng Bát cảnh sơn (hoặc có thể đi từ Đồng Văn theo quốc lộ 60).


Xã Tượng Lĩnh được thiên nhiên ưu đãi với địa hình tự nhiên có nhiều tiềm năng phong phú. Dãy Bát cảnh sơn đứng bên tả ngạn sông Đáy, dựa lưng vào vòng cung Nam Công (Kim Bảng – Hà Nam và Tuyết Sơn, Hương Tích – Hà Tây), tạo thành thế núi hình sông kỳ thú. Xét theo tổng thể ở phạm vi rộng thì Bát cảnh sơn là một cụm du lịch của quần thể Hương Sơn bởi hai thắng cảnh này rất gần gũi, tiếp giáp với nhau liền mạch trong dãy núi đá vôi Hà Nam – Hà Tây. Theo vị trí địa lý hành chính. Bát cảnh sơn là "tiểu thắng cảnh", là cửa ngõ Hương Sơn, nằm trong xã Tượng Linh, nơi ngã ba của 3 huyện Kim Bảng (Hà Nam), Mỹ Đức, Ứng Hoà (Hà Tây).

Từ lâu, dãy Bát cảnh sơn (dãy núi có 8 cánh) được coi là một thắng cảnh của trấn Sơn Nam. Theo Lịch triều hiến chương loại chí (phần Dư địa chí) của Phan Huy Chú thì vào thế kỷ thứ XVI, Nghị tổ Trịnh Doanh qua đây chiêm ngưỡng đã ví Bát cảnh sơn với Tiêu Tương bên Trung Quốc và cho lập hành cung để đi về thưởng ngoạn. Xưa kia, ở Bát cảnh sơn có 8 ngôi chùa và một ngôi miếu thờ thổ đại thần linh được bài trí xây dựng theo thuyết bát quái ngũ hành. Có thể do tám ngôi chùa mà vùng núi này được đặt tên là Bát cảnh sơn? Ngày nay, mặc dù một vài cảnh quan đã bị hủy hoại vì chiến tranh nhưng hàng năm khách vãn cảnh chùa Hương và khách du lịch thập phương vẫn về thăm với một số lượng khá đông.

Bát ảnh sơn bao gồm:

1. Đền Tiên Ông (đền Ông) được xây dựng vào đời vua Trần Nhân Tông trên lưng chừng núi Tượng Lĩnh, cao khoảng 200m giống hình con vui phủ phục (nhân dân thường gọi là voi quỳ). Núi Tượng Lĩnh là điểm đầu tiên trong hệ thống Bát cảnh sơn.

Từ km 13 quốc lộ 22, theo đường đá thoai thoải tới phía bắc chân núi Tượng Lĩnh, qua 5 gian nhà khách, 3 gian nhà tổ, du khách đi 108 bậc đá lên đền. Đền hình chữ tam: tiền đường 5 gian, trung đường 3 gian, và hậu cung 1 gian. Đền trước vốn nhỏ, sau nhiều lần trùng tu mới có được quy mô đồ sộ như ngày nay. Tiền đường được kiến trúc kiểu chồng diêm tám mái cong, 4 góc đầu dao hình rồng mềm mại, mái lợp ngói nam đều đặn. Tòa trung đường xây kiểu hồi văn cánh bảng tam đấu, hậu cung cuốn vòm. Ở đây còn lưu giữ được nhiều thần phả, sắc phong và nhiều đồ thờ tự quý hiếm như hoành phi, đại tự, câu đối, bát hương bằng đá, bằng đồng. Đặc biệt ở đây còn có 2 pho tượng, 1 bằng gỗ, 1 bằng đồng được thờ trong hậu cung.

Đền Tiên Ông thờ Nam thiên đại thành hoàng Thánh tổ Thiên vương Bồ Tát. Sự tích Tiên Ông được truyền thuyết kể rằng cha của Tiên Ông quê ở Từ Sơn (Bắc Ninh), là quan to trong triều nhà Trần, có tới 23 thê thiếp mà vẫn chưa có con trai. Đến khi đi kinh lý ở trấn Sơn Nam, tại xã Thịnh Đại (nay là xã Đại Cương) huyện Kim Bảng, thân phụ ngài lấy tới thê thiếp thứ 24 mới sinh được ngài. Ngài sinh ra đã có tướng mạo khác thường, lớn lên chỉ một lòng đèn hương thờ Phật. Ngài chu du khắp nơi tìm thầy học đạo. Vào một ngày, ngài đến khu Quang Thừa (nay là xã Tượng Lĩnh) thấy dãy Bát cảnh sơn hùng vĩ bèn lập một ngôi chùa dưới chân núi động Tam Giáo để thờ Phật và thờ tổ tiên cha mẹ, gọi là chùa Tam Giáo. Sinh thời ngài có rất nhiều công lao đối với nhân dân địa phương như cứu giúp kẻ nghèo khó, chữa bệnh cứu người. Khi đắc đạo, ngài hóa thân vào cây "Đại nại" và dặn rằng hãy lấy cây gỗ đó để tạc tượng thờ, còn lấy đồng tạc tượng thờ thần. Dân nhớ ơn lập đền thờ tạc tượng gỗ và tượng đồng theo lời dặn của ngài.

Các pho tượng rất linh thiêng, trải bao lần đền bị chiến tranh giặc giã phá hủy, pho tượng đã nhiều phen bị mang đi nhưng không ai đụng tới được. Nguyễn Hữu Chỉnh cũng đã mang tượng đồng ở đền thờ ngài đi đúc tiền đồng nhưng búa rìu không chạm được vào tượng, tượng chỉ đổ mồ hôi, còn quân lĩnh chạm vào tượng thì bị rìu chặt vào chính chân mình. Nguyễn Hữu Chỉnh sợ hãi khấn rằng, nếu Ngài linh thiêng thì hãy cho sông Châu bên mưa, bên tạnh. Quả nhiên là ứng nghiệm. Cuối cùng, Nguyễn Hữu Chỉnh phải sai quân lính mang tượng trả lại về đền. Nhiều vị vua, chúa như Lê Thái Tổ, Lê Dụ Tông, Trịnh Doanh, Trịnh Tùng, Trịnh Sâm, Mạc Phúc Hải đã tới thăm đền. Tương truyền, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huy Oánh là con cầu tự của ngài.

Nhớ ơn ngài, cứ đến ngày rằm tháng 6 hàng năm, hai làng Thịnh Đại, Quang Thừa tổ chức lễ hội rất long trọng, khách thập phương ở nhiều nơi cùng về tham dự.

2 Chùa Ông

Phía trước đền Tiền Ông là một hồ nước lớn hình bán nguyệt bao quanh phía bắc núi Tượng Lĩnh. Hồ có diện tích 320 mẫu, có nước quanh năm, độ sâu trung bình là 4 đến 5m. Truyền thuyết kể lại trước đây ở giữa hồ có một ngôi chùa, gọi là Chùa Ông. Năm 1901, do ảnh hưởng của lũ lụt, chùa bị cuốn trôi. Hiện nay, hồ có nhiều loại cá to, diện tích mặt nước có thể khai thác du thuyền và câu cá.

3 Chùa Tam Giáo
Từ đền Tiên Ông, men theo sườn núi khoảng 1km là đền chùa Tam Giáo, Chùa Tam Giáo xưa kia có hàng trăm gian với hàng trăm pho tượng Phật uy nghi tráng lệ. Truyền thuyết kể rằng, khi xây dựng chùa, có rất đông thợ làm. Tiên Ông có nồi cơm và lọ muối vừng ăn hết lại đầy.

Chùa được xây dựng dưới chân núi, ở đây có một suối nước chảy từ lòng núi ra, tương truyền, dòng suối này mỗi ngày chảy ra hai bát gạo và hai đồng tiền đủ cho nhà sư sinh sống. Sau có kẻ tham biết chuyện đã đục cho miệng suối rộng ra, từ đấy gạo tiền không chảy ra nữa.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa là căn cứ hoạt động của các đồng chí lãnh đạo Trung ương và tỉnh, chùa từng là kho tiếp liệu của công binh xưởng Liên khu III, lại vừa là Văn phòng thường trực Liên khu ủy và Ủy ban kháng chiến Liên khu III những năm 1947– 1950. Trên đường từ đền Tiên Ông đến chùa Tam Giáo trước đây có rất nhiều hang động đẹp, đến nay do biến động của thiên nhiên, do sự khai thác của con người, nhiều hang đã bị phá hủy.

Chùa Tam Giáo mới được khôi phục lại những năm gần đây. Chùa hình chữ đinh, có 5 gian đại tế và một hậu cung, đại tế tạo 8 mái chồng diêm, lợp ngói nam.

4. Chùa Kiêu, chùa Bà, chùa Dâu, chùa Cả, chùa Bông, chùa Vân Mộng

Tất cả những ngôi chùa trên từng tạo thành một quần thể vừa linh thiêng, vừa là danh thắng đẹp mắt. Tiếc rằng, cho đến nay, 6 ngôi chùa kể trên đều không còn, có chùa đã bị san bằng, có chùa chỉ còn lại nền móng.

Cách chùa Tam Giáo 150m đi ngược lên đỉnh núi là chùa Kiêu. Chùa Kiêu nằm trên đỉnh núi cao, từ đây có thể bao quát một vùng rộng lớn phía đông nam xã Tượng Lĩnh. Hiện nay chùa chỉ còn nền móng và một động nhỏ rộng 10m2. Dọc đường có 3 tấm bia khắc vào vách núi. Bên cạnh động có khối đá vuông mặt nhẵn nhụi trên có ghi chữ Hán: "Nhật nguyệt trường quang". Tục truyền ngày xưa cứ đêm trăng sáng, Tiên Ông cùng ngồi đánh cờ với các quan nhà trời.

Từ chùa Kiêu, vượt qua đường đèo và 3 thung lũng, qua 5 ngọn núi là đến chùa Vân Mộng. Tương truyền chùa Vân Mộng là nơi mà Thiền sư Nguyễn Minh Không đã từng tu hành và trụ trì. Ngôi chùa cũng đã đi vào sách vở với ghi chép của Lê Quý Đôn trong Vân đài loại ngữ. Tục truyền, vua nhà Lý bị đau mắt không thuốc nào chữa khỏi. Nghe tin ở chùa Vân Mộng có Quỷ Cốc tiên sinh thông tuệ thiên địa bèn đến cầu thì được biết nhà vua đau mắt là do động huyệt xoáy rồng ở khúc sông Hồng, cần có người hiến tế thì nhà vua mới khỏi bệnh. Sau có ông bà bán dầu Vũ Phục nhảy xuống sông, quả nhiên nhà vua lành mắt.

Chùa Vân Mộng nằm trên sườn núi chênh vênh quyện cùng khói mây huyền ảo, xung quanh có rất nhiều hang động lớn nhỏ kỳ thù bí ẩn, có những hang sâu 30m, rộng khoảng 300m2 như hang Dơi, hang Bạc, hang Vàng… Từ đây có thế đến thung Bế, thung Vạc của xã Tân Sơn. Hiện nay chùa chỉ còn nền móng cũ và một vài hiện vật như bia khắc vào vách núi, bát hương đá, đá tảng kê chân cột. Phía tây chùa có núi Hai Quả cao chót vót, lưng chừng núi có hang Dơi, vì ở đây có rất nhiều dơi đến trú ngụ, có những con to như cái quạt giấy. Cửa hang hình miệng rồng, hang sâu 50m. Đặc biệt trong hang có một hồ nước nhỏ, vòm hang có nhiều nhũ đá tự nhiên với nhiều hình thù kỳ lạ, đẹp mắt.

Ngoài ra, ở vùng Bát cảnh sơn xưa kia còn các ngôi chùa Bà, chùa Dâu, chùa Bông, chùa Cả hiện nay không còn dấu tích để lại.

Địa linh nhân kiệt, Bát cảnh sơn không chỉ nổi tiếng là danh thắng mà còn nổi tiếng về người hiền tài. Huyện Kim Bảng có 5 nhà khoa bảng thì Tượng Lĩnh có tới 3 người. Tượng Lĩnh còn được coi là nơi phát tích truyện trầu cau vì ở đây còn có suối Cau trong dãy núi đá vôi (nay gọi là suốt Tân Lang), có chợ trầu (này là chợ Dầu).

Với cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, với những dấu tích xưa còn lại, quần thể Bát cảnh sơn nếu được khai thác đúng hướng chắc chắn sẽ trở thành một điểm du lịch sinh thái – văn hoá hấp dẫn trên đất Kim Bảng, Hà Nam.

(Nguồn: hanam.gov.vn)

Cách Hà Nội 80km về phía Nam, Kẽm Trống (xã Gia Thanh, huyện Gia Viễn) là một danh thắng độc đáo được tạo ra bởi sông Đáy là ranh giới giữa Hà Nam - Ninh Bình. Năm 1962, Kẽm Trống được công nhận là một di tích thắng cảnh quốc gia. Xưa kia, khi qua nơi này, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã viết:


"Hai bên thì núi, giữa thì sông,

Có phải đây là Kẽm Trống không?

Gió dập sườn non khua lắc cắc

Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.

Ở trong hang núi còn hơi hẹp,

Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.

Qua cửa mình ơi, nên ngắm lại,

Nào ai có biết nỗi bưng bồng".

Những dãy núi quanh Kẽm Trống có nhiều hang động. Nhưng được nhắc đến nhiều nhất trong đó là Địch Lộng. Nơi này nổi tiếng bởi ngoài vẻ đẹp của động, còn có một khu đình chùa cổ kính. Quần thể động - chùa Địch Lộng đẹp tới mức đã được vua Minh Mạng ban tặng cho 5 chữ "Nam thiên đệ tam động", có nghĩa là động đẹp thứ ba ở trời Nam.

Tương truyền, vào năm 1739, một tiều phu đi kiếm củi, leo lên núi đã phát hiện ra cửa động. Khi vào trong, thấy có nhiều nhũ đá đẹp, đặc biệt trông thấy một nhũ đá có hình giống như tượng Phật nên lập bàn thờ Phật ở đó. Đến năm 1740 thì hình thành chùa.

Nói Động - Chùa Địch Lộng là nói gọn, chứ thực ra tại đây còn có đình với 16 cột đá nguyên khối, nên còn gọi là "đình đá"; có đền thờ Lý Quốc Sư; hồ bán nguyệt, 5 tháp cao ba tầng; ba gian chùa Hạ, ở gian giữa có treo cuốn thư chữ Hán "Lưu Ly Bảo Điện" nói lên sự quý giá của ngôi chùa...

Từ Chùa Hạ qua phủ Đức Ông, tiếp tục leo lên thêm 105 bậc đá nữa sẽ đến hang động khiến bạn không thể không sửng sốt trước sự kỳ diệu của tạo hóa và sức tưởng tượng vô biên của con người. Trên cửa động đề 6 chữ: "Nham Sơn động, Cổ Am tự" là tên "cúng cơm" của Động - Chùa Địch Lộng.

Hai bên cửa động có hai tượng Hộ Pháp, trên mái vòm hang đá cao 8 mét treo quả chuông nặng gần một tấn, được đúc từ thời nhà Nguyễn. Sân trước động có phủ thờ Bà Chúa Thượng Ngàn, phủ thờ Đức Thánh Mẫu. Cũng tại đây, hai "giếng ngọc" quanh năm đón những giọt nước từ nhũ đá liên tục nhỏ xuống mát rượi, có tượng ông Thiện, ông Ác cưỡi trên sư tử.

Đứng tại "sân" này, phía bên phải là ngôi chùa có "mái" là vòm hang cao khoảng 20 mét, sâu khoảng 30 - 40 mét với khá nhiều tượng được sắp xếp từ ngoài vào trong, từ thấp lên cao. Đặc biệt là 3 pho tượng Tam Thế Phật sơn son thiếp vàng được ban vào thời vua Thiệu Trị và tượng Phật Bà Quan Âm, tượng A Di Đà được tạc bằng đá xanh nguyên khối.

Trong động Địch Lộng còn có hang Tối và hang Sáng. Hang Tối nằm ở phía trái. Vào hang, du khách sẽ cảm thấy choáng ngợp bởi khối nhũ đá to, tròn, nhẵn lì mọc từ nền hang nhô lên. Tục truyền, đó là bầu sữa mẹ của tạo hoá. Từ trên nóc động, có nhiều nhũ đá chảy xuống trông giống như những cột chống trời.

Tại đây, bạn sẽ có cảm giác như lạc vào cõi trùng điệp của đá với đủ mọi hình dáng ngoạn mục. Mỗi không gian của vách động, trần động là một bức tranh nghệ thuật, những nét chạm khắc tuyệt vời của thiên nhiên, đạt đến mức tinh xảo mà con người không thể nào làm được.

Đi hết hang Tối là đến hang Sáng. Ở trên cao, cửa hang Sáng thắt hẹp lại. Một khoảng lộ thiên, khi có gió thổi mạnh vào trong động phát ra âm thanh của đá nghe như tiếng sáo. Vì vậy động mang tên là Địch Lộng, nghĩa là ống sáo thổi gió. Điều độc đáo ở hang Tối và hang Sáng là các thạch nhũ, lấy đá gõ vào thì lanh lảnh như tiếng chuông.

Đó là những thạch cầm của thiên nhiên. Đặc biệt hơn nữa là những dải nhũ đá trong hang lấp lánh bảy sắc cầu vồng và mầu sắc thay đổi theo ánh sáng mặt trời.

Cùng với nét đẹp mê hồn, Động - Chùa Địch Lộng còn là di tích lịch sử trong kháng chiến chống Pháp và là nơi điều trị cho các nạn nhân của bom đạn Mỹ những năm chiến tranh ác liệt./.

Nguồn: hanam.gov.vn

Chiều 13-10, tại Hà Nội, trong buổi làm việc với tỉnh Hà Nam về chiến lược phát triển văn hóa, thể thao, du lịch, Bộ trưởng Bộ VH, TT&DL Hoàng Tuấn Anh chỉ đạo: Hà Nam cần triển khai xây dựng Dự án khu du lịch Tam Chúc – Ba Sao thành khu du lịch trọng điểm quốc gia.

Vùng đầm lầy hồ Tam Chúc

Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh nhấn mạnh, với lợi thế của mình, Hà Nam phải phấn đấu tạo thành điểm nhấn du lịch trên bản đồ du lịch Việt Nam, cũng như đưa Tam Chúc – Ba Sao như một hình ảnh thương hiệu của tỉnh.

Khu du lịch hồ Tam Chúc thuộc xã Ba Sao huyện Kim Bảng, cách thị xã Phủ Lý khoảng 12km trên tuyến quốc lộ 21A tiếp giáp với Hoà Bình và Hà Tây, cách khu du lịch Hương Sơn khoảng 3km đường leo núi. Tổng diện tích khu du lịch (đã mở rộng) là 4 nghìn ha. Nơi đây là vùng ngập nước núi đá rất độc đáo, với phong cảnh nước non hùng vĩ. Riêng diện tích hồ trên 600ha. Khu vực hồ Tam Chúc đang được tiến hành lập quy hoạch xây dựng dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo ra khu du lịch sinh thái nghỉ cuối tuần bao gồm các sản phẩm du lịch chính là: du lịch trên hồ, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch leo núi, thể thao và vui chơi giải trí…

Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam Mai Tiến Dũng cho biết: Dự án khu du lịch Tam Chúc là một trong những kế hoạch phát triển đầy tiềm năng; là gạch nối giữa khu du lịch Chùa Hương với khu du lịch Vân Long, Hoa Lư, Tam Cốc Bích Động… tạo thành một quần thể các khu du lịch sinh thái vùng ngập nước. Bên cạnh đó, tỉnh Hà Nam cũng xác định quy hoạch hạ tầng kết nối khu du lịch Tam Chúc- Ba Sao với Bái Đính, Chùa Hương; phối hợp với Hà Nội đầu tư tuyến nối Ba Sao, qua chùa Hương với Mỹ Dình và hệ thống giao thông đối ngoại để tạo sự phong phú đa dạng của một quần thể du lịch đáp ứng nhu cầu của du khách trong nước và quốc tế.

Cũng theo ông Dũng, Ban thường vụ Tỉnh ủy Hà Nam đã ban hành Nghị quyết về phát triển khu du lịch này đến năm 2015. Phấn đấu trong quý IV năm 2011 sẽ đôn đốc đẩy nhanh tiến bộ GPMB, thi công hạ tầng khu du lịch; đồng thời trong tháng 10 này hoàn thành điều chỉnh mở rộng quy hoạch khu du lịch, ban hành cơ chế thu hút, cơ chế quản lý đối với khu du lịch...

Theo báo cáo của tỉnh Hà Nam, doanh thu du lịch của tỉnh tăng bình quân 15%/năm. Trong 9 tháng du lịch ước đạt gần 220 nghìn lượt khách, xấp xỉ 96% kế hoạch cả năm, doanh thu du lịch ước đạt 45,23 tỷ đồng.

Núi Ngọc cách chùa Bà Đanh 100m về phía bắc. Từ thị xã Phủ Lý, ngược sông Đáy 7km, tới bến Đanh, đi tiếp 100m là đến núi Ngọc.

Núi Ngọc

Quả núi nằm sát mặt nước sông Đáy. Núi Ngọc là một ngọn núi đá vôi trong hệ thống núi đá kéo dài từ Hòa Bình xuống hướng tây bắc đông nam qua xã Tượng Lĩnh – Khả Phong – Liên Sơn của huyện Kim Bảng. Tuy nhiên núi Ngọc nằm tách riêng, ngăn cách vệt dãy núi kia bằng con sông Đáy.

Núi Ngọc không cao lắm. Ở đây cây cối mọc nhiều, cây to cây nhỏ mọc chen nhau cành lá xum xuê do dân địa phương có ý thức giữ gìn. Trên núi có một cây si cổ thụ, tương truyền có tới hàng trăm tuổi. Đứng trên ngọn núi, du khách có cảm tưởng như được tách riêng biệt khỏi sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống hiện đại để hòa mình vào sự yên tĩnh thuần khiết của thiên nhiên với núi, sông, cây cỏ. Ngay dưới chân núi có một ngôi đền cổ thờ một ông nghè có công với dân làng.

Nối giữa chùa Bà Đanh và núi Ngọc là một bãi rộng trồng cây lưu niên, chủ yếu là vải thiều, nhãn, tùy thời vụ có xen cả ngô lúa. Nằm hoàn toàn biệt lập với khu dân cư, trên núi, dưới sông, gần đền, gần chùa, núi Ngọc quả là một thắng cảnh của đất Kim Bảng, một địa điểm du lịch đầy hấp dẫn.

Những thân cây rậm rạp trong khu rừng này đang là một miếng mồi béo bở cho bọn lâm tặc. Khu rừng là một kho báu lớn.


Tôi và ông Viễn đi miên man qua các vách đá, vạch những bụi rậm tìm loài cây bạc tỷ. Ông Viễn bảo, cứ cây nào thân nhẵn thín, có màu vàng nhạt, đích thị là cây sưa. Có những chỗ, gốc sưa cứ xin xít nhau, tán lá phủ trùm, chen chúc nhau trong một không gian chật hẹp.

Tôi hỏi ông Nguyễn Trung Thành, Trưởng ban Quản lý Đền Trúc – Ngũ Động Sơn (Thi Sơn, Kim Bảng, Hà Nam) rằng, việc đưa thông tin khu rừng sưa này lên báo, liệu có vẽ đường cho lâm tặc, ông Thành bảo rằng, chẳng đưa ra ngôn luận thì đám “sưa tặc” cũng biết cả rồi. Người dân còn chưa biết, chính quyền còn chưa hay, hoặc chưa có sự quan tâm đúng mức, thì lâm tặc đã tìm mọi cách triệt hạ.

Những cây gỗ sưa lớn, nằm ở vị trí thuận lợi, nhất là ở vạt núi ven sông Đáy, đều đã bị “sưa tặc” cưa sạch. Hiện chỉ còn lại những cây sưa ở trên đỉnh núi, sườn Tây, những chỗ hiểm trở, mà lâm tặc chưa có điều kiện đốn hạ mà thôi.

Việc đưa thông tin này lên báo, các cựu chiến binh mong muốn chính quyền các cấp quan tâm hơn nữa, tìm cách quản lý giúp các cựu chiến binh già, sớm có biện pháp bảo vệ loài cây quý giá trước lòng tham của lâm tặc.

Khu rừng sưa trên núi Cấm thực ra mới được phát hiện vào năm 2006. Sau khi tham quan núi Cấm, một du khách đã thông báo với ban quản lý di tích: “Trên núi Cấm bạt ngàn cây sưa, các cụ nên thông báo với chính quyền để có cách quản lý, trông nom, chứ cứ để tơ hơ giữa trời thế này thì sớm muộn cũng mất hết”.

Từ hàng trăm năm nay, người dân thôn Quyển Sơn và xã Thi Sơn cũng chỉ biết đến một loài cây lạ trên núi. Chẳng ai trồng loài cây này, mà chúng mọc tự nhiên trên đá. Hàng năm, cứ đến mùa xuân, cả ngọn núi Cấm trắng muốt một màu hoa. Tuy nhiên, họ không hề biết rằng đó là cây sưa đỏ, một loài cây cho gỗ có giá vài tỷ đồng một mét khối lõi.

Ông Nguyễn Trung Thành kể rằng, dường như loài cây này chẳng chịu lớn. Cách đây vài chục năm, ông đã thấy thân chúng lớn chừng hơn vòng tay người ôm và đến bây giờ nó vẫn vậy, chẳng có khác biệt nào.

Người dân Quyển Sơn thường lên núi Cấm lấy củi, song không bao giờ chặt cây sưa. Lý do, rìu, dao bổ vào gốc cây, cứ quằn cả lưỡi, chẳng khác gì bổ vào đá. Một số người cưa gốc cây về, kỳ công chẻ ra, song đốt mãi chẳng cháy lại vứt đi. Trong con mắt của người dân nơi đây, loài “gỗ tạp” này chẳng có tác dụng gì, nên dù dân chúng có đói cũng chẳng thèm chặt.
Gốc sưa mới bị lâm tặc cưa trộm.

Thời gian đó, tự dưng thấy loài “cây lạ” bị đốn hạ nhiều, lại được nghe lời cảnh báo của vị du khách, nên các cựu chiến binh trông nom khu di tích đã báo cáo với lãnh đạo xã và âm thầm tiến hành kiểm tra. Các cụ đã mang quả loài cây này cùng mẫu lá đến gặp các nhà khoa học để nhờ xác minh, đối chứng. Kết quả, loài cây lạ trên núi Cấm đúng là sưa đỏ, loài cây mà các “sưa tặc” đang ráo riết truy lùng, cưa trộm, bán sang Trung Quốc.

Ngay lập tức, thông tin về khu rừng sưa được báo cáo lên cấp trên. Ngọn núi Quyển Sơn lập tức được đổi tên thành núi Cấm, khu rừng trên núi thành khu rừng cấm, với ý nghĩa cấm ra vào, cấm xâm phạm, chặt phá… Rất nhiều câu chuyện huyền thoại được dựng lên, như chuyện ông A vào rừng đốn củi bị tai nạn giao thông, bà B lên núi lấy đá làm cảnh bị tâm thần…

Tuy nhiên, những câu chuyện hãi hùng về sự xâm phạm núi Cấm chỉ dọa được người dân cả tin, chứ không dọa được đám “sưa tặc”. Kể từ ngày loài sưa đỏ có giá bạc triệu, bạc tỷ, đám “sưa tặc” đã biết đến sự tồn tại của khu rừng sưa này. Thi thoảng lại có một gốc sưa biến mất, cứ như thể nó bị bốc hơi.
Từ gốc sưa bị chặt trộm, những cái nhánh lại mọc lên.

“Hoành tráng” nhất là vụ trộm xảy ra vào cuối năm 2008. Chừng nửa đêm, ông Thành cùng các cựu chiến binh đang ngủ trong đền, bỗng nghe thấy tiếng động trên núi, giống tiếng cưa xẻ. Các cựu chiến binh lập tức mang đèn pin, gậy gộc chạy lên núi Cấm. Tuy nhiên, lên đến nơi, thì không thấy bóng người nào cả, chỉ thấy mặt nước sông Đáy vẫn đang xao động. Mọi người đoán rằng “sưa tặc” đã bỏ trốn.

Chạy tiếp lên phía rừng sưa, các cựu chiến binh đã choáng váng khi thấy 30 cây sưa bị đốn hạ. Cây nào cây nấy đều đã được cưa thành khúc, to như cột nhà, lõi đỏ chót như máu. Những cây sưa này đều đã lâu năm vì lõi rất dày, sát đến vỏ.

Các cựu chiến binh đã thông báo cho chính quyền, hôm sau, họ chở đống gỗ sưa này đi. Giờ đống gỗ sưa ấy nằm ở đâu, cũng chẳng ai biết, cũng chẳng bắt được tên trộm nào.

Các cựu chiến binh dẫn tôi xuyên qua khu rừng trúc, vòng lên sườn núi Cấm phía sông Đáy. Theo lời các cựu chiến binh, trước đây, sườn núi ven sông Đáy tập trung rất nhiều cây sưa, tuy nhiên, giờ đây, ở sườn núi này, chẳng còn bóng dáng cây sưa nào nữa. Các cựu chiến binh vạch lớp lá khô, chỉ cho tôi xem những gốc cây còn lại, chìm trong lòng đất, kẽ đá, vẫn còn màu gỗ đỏ thẫm.

Những cây sưa nằm ở vị trí này rất dễ bị trộm cắp. Bọn “sưa tặc” chỉ việc chèo thuyền áp sát chân núi, rồi tiến hành cưa trộm. Dù các cựu chiến binh nghe thấy tiếng động, chạy lên đến nơi, thì chúng đã biến mất cùng với một vài thân cây rồi.
Cụ Nguyễn Trí Viễn bên những gốc cây sưa trị giá tiền tỷ.

Ông Nguyễn Trí Viễn, hiện đã 75 tuổi, song vẫn leo núi phăm phăm, dẫn tôi vòng qua sườn Tây núi Cấm. Càng đi, rừng càng rậm rạp, núi càng hiểm trở. Những vách núi dựng đứng, đá nhọn lởm chởm như tai mèo. Quả thực, với địa hình như thế này, bọn lâm tặc khó mà “đánh nhanh thắng nhanh” được. Chắc vì thế mà sườn núi phía Tây vẫn còn chi chít, bạt ngàn gỗ sưa.

Tôi và ông Viễn đi miên man qua các vách đá, vạch những bụi rậm tìm loài cây bạc tỷ. Ông Viễn bảo, cứ cây nào thân nhẵn thín, có màu vàng nhạt, đích thị là cây sưa. Có những chỗ, gốc sưa cứ xin xít nhau, tán lá phủ trùm, chen chúc nhau trong một không gian chật hẹp.
Trên núi Cấm với đá tai mèo lởm chởm, chỉ có loài sưa là cây thân gỗ lớn nhất.

Tôi hỏi các cựu chiến binh quản lý rừng sưa rằng, núi Cấm có bao nhiêu cây sưa, các cựu chiến binh bảo: “Chịu thôi, không biết được, nó mọc rải rác khắp ngọn núi!”. Lúc đầu, tôi nghĩ các cựu chiến binh giấu thông tin, nên không nói số lượng cây sưa, chứ những cây sưa, cây nào cây nấy đều trị giá tiền tỷ, sao lại không biết. Tuy nhiên, có vào rừng sưa, mới thấy khó lòng đếm xuể.

Sau khi cuốc bộ một vòng quanh núi Cấm, tận mắt khu rừng sưa quý hiếm, tôi thấy số phận những gốc sưa thật mong manh. Nói là núi đá tai mèo lởm chởm, khó đi, chứ với lâm tặc thì những đại ngàn xa xôi hiểm trở nhiều ngày cuốc bộ, chúng còn xẻ gỗ vác ra được, nói gì đến cái núi Cấm bé tẹo mọc lên giữa cánh đồng chiêm trũng này. Bọn lâm tặc chưa sờ đến những gốc sưa bạc tỷ này là do chúng chưa có cơ hội mà thôi.
Liệu ngọn núi đá dựng đứng này có ngăn được lòng tham của lâm tặc?

Trao đổi với anh Đinh Văn Tuyến, Trưởng Công an xã Thi Sơn, về công tác bảo vệ rừng sưa quý hiếm trên núi Cấm, anh Tuyến bảo rằng, sau vụ lâm tặc đốn hạ mấy chục cây sưa phía sông Đáy, công an huyện đã chỉ đạo công an xã phối hợp với các cựu chiến binh quản lý chặt chẽ rừng sưa.

Anh em công an xã được tăng cường trực tiếp bảo vệ rừng sưa vào những thời kỳ cao điểm. Thời kỳ cao điểm là những lúc có cơn sốt gỗ sưa, hoặc khắp nơi rộ lên tình trạng trộm sưa. Còn những ngày bình thường, việc trông rừng sưa giao cho 5 cựu chiến binh già. Công an sẽ tham gia khi có tin báo từ các cựu chiến binh.

Ông Nguyễn Trung Thành cho hay: “Các cựu chiến binh vẫn phân công thay nhau mỗi ngày vài lần đi vòng quanh núi để trông nom rừng sưa. Tuy nhiên, nếu lâm tặc cố tình tìm cách đốn hạ, thì có trời mà biết”. Cũng theo ông Thành, gần đây, xuất hiện vài kẻ lạ mặt có biểu hiện nghi vấn, suốt ngày vật vờ theo chân các cựu chiến binh và lực lượng công an xã. Chỉ cần một chút lơ là của các cựu chiến binh, những gốc cây bạc tỷ sẽ bốc hơi lập tức.

Rừng sưa với những gốc cây bạc tỷ trên núi Cấm dường như vẫn đang bị phó mặc cho lâm tặc…

Theo 24h.com.vn