vietnamese Tiếng Việt english English
Hôm nay:
Tin mới đăng:

 Chùa Tiên tọa lạc trên núi Đụn, thôn Đồi Ngang, xã Thanh Lưu huyện Thanh Liêm. Lễ hội chùa Tiên được phục dựng từ năm 1992, lễ hội diễn ra từ ngày mùng 1 đến ngày 3 tháng 3 âm lịch.


Tương truyền đây là vùng núi địa linh – nơi có 99 con phượng hoàng bay về cư ngụ trên đồi thông 99 ngọn và bàn cờ tiên – đêm đêm trăng thanh gió mát, tiên thường hạ giới đánh cờ và thưởng ngoạn núi non. Tưởng nhớ các bậc tiên thánh, nhân dân trong vùng đã lập chùa thờ tự. Hiện nay xung quanh khu vực chùa Tiên còn lưu giữ nhiều ngọc phả, sắc phong quý và có ý nghĩa lịch sử lớn của vùng đất Thanh Liêm. Trải qua hàng trăm năm, chùa đã được tu sửa nhiều lần.

Lễ hội chùa Tiên được phục dựng từ năm 1992, lễ hội diễn ra từ ngày mùng 1 đến ngày 3 tháng 3 âm lịch. Cùng với nghi thức rước mẫu lên chùa, nghi thức tế lễ cầu quốc thái dân an, lễ hội còn diễn ra nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ thu hút đông đảo tín đồ phật tử và khách thập phương tham gia.

theo  HaNam24h.vn

Đêm 27/2 tức 14 tháng Giêng Âm lịch, Lễ Phát lương Đức Thánh Trần được tổ chức lần đầu tiên tại đền Trần Thương, xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan về dự.


Đền Trần Thương là một trong 3 ngôi đền lớn của cả nước thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn cùng gia quyến và các Bộ tướng có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông năm 1258. Tương truyền đây là nơi đặt kho lương của nhà Trần phục vụ cho cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giữ yên cõi bờ Đại Việt.

Sau nghi lễ dâng hương hoa, thắp nến tưởng niệm công đức Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, nguyện cầu quốc thái dân an, đúng 23h30', Ban tổ chức Lễ hội tiến hành nghi lễ dâng hương, mở kho lương Thánh Trần phân phát khoảng 5.000 túi lương, gồm các vật phẩm ngô vàng, thóc nếp và tờ in Ấn vua Trần cho người dự lễ.

Lễ hội phát lương Đức Thánh Trần là dịp để thế hệ hôm nay tưởng nhớ công lao của anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, hiểu thêm về lối dụng binh, phép trị nước, chính sách khoan thư sức dân của nhà Trần và giáo dục mọi người tinh thần tiết kiệm, chăm lo phát triển nông nghiệp, xây dựng cuộc sống ngày càng no ấm.

Bà Đỗ Thị Mùi, một du khách dự lễ bày tỏ: “Hội năm nay đông vui hơn mọi năm. Chúng tôi mong Đức Thánh Trần phù hộ độ trì cho dân mạnh khỏe, làm, ăn ngày càng phát đạt. Mong đất nước thanh bình, lớp trẻ học hành thông minh, tiến tới….”./.


Theo Vovnews

Làng Gừa thuộc xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm, Hà Nam. Đình làng Gừa thờ vị tướng tài của Đinh Bộ Lĩnh tên là Trương Nguyên người làng Gừa. Thần phả kể rằng sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, vua Đinh làm lễ thưởng công cho các bậc khanh tướng. Ông Trương được ban quốc tính (họ Đinh) nhưng ông từ chối và dâng biểu xin về quê nuôi dưỡng cha mẹ. Khi ông chết, vua Đinh cho ruộng cấy, cắt đinh phu giao cho vùng Ninh Cơ (làng Gừa ngày nay) lập đình thờ cúng.


Lễ hội làng Gừa ngày nay có tế lễ, rước xách và rất nhiều trò vui thể hiện tinh thần thượng võ như đánh đu, đánh vật, chém mía, cướp cầu. Ban đêm có hát chèo tuồng, phần nhiều là các tiết mục tự biên, tự diễn. Trống lễ, trống rước, trống hội, trống chèo rậm rịch ngày đêm làm cho khí thế của lễ hội càng thêm náo nhiệt.

Nhưng đặc biệt nhất là trò chơi cướp cầu. Tương truyền, khi ông Trương Nguyên từ Hoa Lư về quê có mang theo một quả cầu, một dụng cụ để luyện tập binh sĩ. Khi về làng cụ bày trò chơi cho toàn dân. Đến nay, trong lễ hội thờ ông, cướp cầu đã trở thành một nghi lễ không thể thiếu được. Quả cầu bằng gỗ, kích thước xấp xỉ như quả bóng chuyền ngày nay, được sơn son thếp vàng và trang trí vẽ mây sóng trên bề mặt. Quả cầu là thánh vật của làng Gừa, đến nay đã bị tróc sơn, các hoa văn họa tiết cũng không còn được rõ nét. Hàng năm chỉ có ngày lễ hội mới được mang cầu ra chơi và bao giờ cũng được tổ chức đầu tiên để khai cuộc.

Hội được tổ chức vào ngày mồng 4 tháng giêng hàng năm. Từ mờ sáng mồng 4, cửa đình đã rộng mở, đèn thắp sáng, khói hương nghi ngút. Trống nổi giục giã dân làng tới đình. Làng chọn lão nông hoặc người có chức sắc, gia đình thuận hòa, nề nếp làm chủ tế. Đúng giờ tỵ, trò cướp cầu bắt đầu. Đội nào thắng sẽ được vào cung hồi trống, tế thánh khai hội và họ tin rằng mọi ước nguyện cũng sẽ linh ứng.

Trò cướp cầu này còn tồn tại trong hội làng An Mông (làng Móng) xã Tiên Phong, Duy Tiên. Ý nghĩa của tục cướp cầu này, ngoài sự tôn vinh vị anh hùng của quê hương, ngoài sự thể hiện tinh thần thượng võ, có người đã nói tới dấu vết của tục thờ thần mặt trời của người Việt cổ.

(Nguồn: hanam.gov.vn

Đền Trúc thờ danh tướng Lý Thường Kiệt. Hàng năm, nhân dân Quyển Sơn mở cửa đền mở hội từ ngày 1 tháng giêng đến 1 tháng hai âm lịch. Lễ hội được mở vào những ngày nông nhàn nên dân quanh vùng và du khách thập phương nô nức kéo về dự hội. Không gian lễ hội từ xưa mở rộng từ đình Trung đến đền Trúc, chùa Thi và ven núi Cấm.

Đền Trúc nằm ở thôn Quyển Sơn, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng, Hà Nam.

Đền Trúc thờ danh tướng Lý Thường Kiệt. Hàng năm, nhân dân Quyển Sơn mở cửa đền mở hội từ ngày 1 tháng giêng đến 1 tháng hai âm lịch. Lễ hội được mở vào những ngày nông nhàn nên dân quanh vùng và du khách thập phương nô nức kéo về dự hội. Không gian lễ hội từ xưa mở rộng từ đình Trung đến đền Trúc, chùa Thi và ven núi Cấm.

Từ sáng sớm, đoàn rước kiệu từ đền đã về tới cửa đình làm lễ dâng thương. Sau đó, các đội tế trong trang phục tế đủ màu làm lễ tạ ơn Trời Phật. Sau nghi lễ cáo trời đất, thành hoàng chừng 3 tiếng đồng hồ thì đến các trò chơi như thi kéo co, đấu vật, chọi gà, chơi cờ bỏi… Song nét đặc sắc nhất của lễ hội đền Trúc phải kể đến là múa hát dậm và đua thuyền.

Sáng mùng 1 tháng 2 âm lịch, làng chính thức mở hội rước tượng Phật cùng bài vị thờ Lý Thường Kiệt từ đền về đình làng. Sau phần lễ là đến phần múa hát thờ. Hát dậm được biểu diễn liên tục 6 ngày. Đến sáng mùng 7 lại rước tượng Phật cùng bài vị của Lý Thường Kiệt về đền, hát dậm vẫn tiếp tục trong 3 ngày nữa (gọi là hát yên vị) và đến 10 tháng 2 thì đóng cửa đền, vãn hội.

Múa hát dậm là lối múa hát tương truyền Lý Thường Kiệt bày cho dân trong vùng khi ông thắng trận trở về dừng lại nghỉ ở đất này. Từ đó, vào dịp hội đền, nhân dân tổ chức múa hát dậm để tưởng niệm vị anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt. Sáng mùng 1 tháng 2 âm lịch, làng chính thức mở hội rước tượng Phật cùng bài vị thờ Lý Thường Kiệt từ đền về đình làng. Sau phần lễ là đến phần múa hát thờ. Hát dậm được biểu diễn liên tục 6 ngày. Đến sáng mùng 7 lại rước tượng Phật cùng bài vị của Lý Thường Kiệt về đền, hát dậm vẫn tiếp tục trong 3 ngày nữa (gọi là hát yên vị) và đến 10 tháng 2 thì đóng cửa đền, vãn hội.

Múa hát dậm được tổ chức ngay tại sân đền. Phường múa hát có từ 30 con dậm trở lên. Đây là những cô gái tuổi từ 13-15, thanh tân, xinh đẹp, có tài múa hát. Ai có chồng hoặc có tang không được hát. Đứng đầu phường hát là cụ trùm, vừa cao tuổi, vừa có tài hát, đặc biệt là tài nhớ bài, chỉ đạo múa hát. Cụ trùm thuộc lòng tất cả các làn điệu hát múa, trực tiếp điều khiển con dậm thực hiện chương trình tiết mục. Khi diễn xướng, cụ trùm mặc áo thụng vàng, vấn khăn vàng, đi dép cong, các con dậm mặc áo mớ ba nhiễu đỏ trong cùng rồi the xanh, the đen bên ngoài, yếm đỏ, váy lĩnh, khăn đỏ, mũ tiên đính ngọc... Trong múa hát dậm, điệu múa có các động tác mô phỏng các động tác chèo thuyền, lúc đứng hát cũng như khi quỳ lạy (gọi là chèo thuyền và chèo quỳ). Đây được coi là phần lễ gắn bó mật thiết với phần hội là hội đua thuyền trên sông Đáy. Cụ trùm được coi là một “quan chức” trong làng, được ưu tiên ưu đãi. Các con dậm thì chẳng được gì, lại còn phải đóng góp thêm. Nhưng được làm con dậm đã là một vinh dự chẳng phải ai cũng có. Bài bản hát dậm được ghi lại bằng chữ Nôm, có tên là: “Lý Đại vương bình Chiêm sự tích diễn ca”. Hát dậm có 30 tiết mục với hơn một nghìn câu thơ. Múa dậm kết hợp với hát, mô phỏng động tác dậm chân chèo thuyền (vì thế mới gọi là hát dậm). Ngoài hát dậm, hội đền Trúc còn có hát bỏ bộ, hát đúm. Trai gái đến tuổi trưởng thành, còn son đều đến hát với nhau trước cửa đền. Tối tối, họ đến đền lễ tạ rồi tản ra chung quanh, vào rừng, lên núi, dưới bóng cây, bãi đất... hát đối đáp tỏ tình...

Hội đua thuyền được tổ chức vào ngày mùng 6 tháng 2. Ngược với hát dậm, chỉ có nam giới mới được tham gia cuộc đua này. Số lượng thuyền đua tùy theo từng năm, thường có 3 thuyền dự thi. Ba đội đua với trang phục có màu sắc khác nhau. Thuyền đua được đóng bằng gỗ, dài khoảng 8m, đầu và thuyền được đóng vuông. Phía trên đầu thuyền có gắn đầu rồng bằng gỗ và cắm một lá cờ hội nhỏ. Đoạn đường đua dài gần 3km trên sông Đáy. Điểm xuất phát từ trước cửa đền Trúc, đua đến chân cầu Quế rồi vòng trở lại. Mỗi thuyền đua gồm 18 người: 1 người lái thuyền, 16 tay chèo, 1 người gõ nhịp chỉ huy. Mỗi nhịp gõ, mỗi câu hò là một nhịp chèo tạo nên sự nhịp nhàng rất cao, Khán giả đến xem cổ vũ rất đông, tiếng hò reo vang dội cả một vùng. Kết thúc cuộc thi, đội thắng cuộc sẽ nhận được phần thưởng.

Cuộc đua thuyền trên sông Đáy này mang rất nhiều tầng ý nghĩa. Ngoài ý nghĩa là một cuộc đua mang tính thể thao nó còn là một nghi lễ tưởng niệm cuộc hành quân của Lý Thường Kiệt trên sông trong lần tiễn phạt quân Chiêm Thành. Và cổ xưa hơn nữa, đây là một hoạt động tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước thể hiện khát vọng thoát khỏi thiên tai lũ lụt, cầu mong mưa thuận gió hoà cho mùa màng tốt tươi. Hơn nữa, không khí sôi nổi và cuốn hút của lễ hội đền Trúc được tạo ra từ màn múa hát thờ do các cô gái thể hiện trong sân đền và cuộc đua thuyền do nam giới tiến hành trên đoạn sông Đáy trước cửa đền chính là sự diễn tả lại không khí khải hoàn ca thắng lợi của cuộc bình Chiêm nức lòng trong lịch sử dân tộc.

Lễ hội hát dậm và đua thuyền đền Trúc là một hoạt động đầy sức sống của dân gian, ca ngợi chiến công của Lý Thường Kiệt, ca ngợi quê hương đầy ắp không khí lịch sử, truyền thống văn hóa.

(Nguồn: hanam.gov.vn

Cũng như nhiều nơi khác trên đất Việt Nam, Hà Nam có rất nhiều nơi thờ các nhân vật lịch sử, phổ biến nhất là ở ngôi đình làng.


Đình là trung tâm văn hóa tinh thần của làng, nơi giữ gìn các giá trị tinh thần mà cộng đồng làng đã đúc kết trong cuộc sống chung, trong sự chống chọi với vô vàn thử thách của thiên tai và giặc dã. Trong cuộc đối chọi nhiều khi không cân sức đó, mỗi một cộng đồng nhỏ bé đã tìm thấy cho mình một vị anh hùng, người từ chỗ có công đã giúp họ vượt qua những thử thách khốc liệt của hoàn cảnh (như mở làng lập ấp, chống thiên tai, đánh giặc, chữa dịch bệnh…) đã trở thành chỗ dựa về mặt tinh thần của cả cộng đồng, có thể chở che cho họ trong những phen nguy khốn, trở thành biểu tượng của cái thiêng có thực giữa cuộc sống phàm trần có sức nâng đỡ con người vượt qua sự hữu hạn của chính bản thân họ để hướng tới khát vọng về cái phúc cao cả. Vì vậy, vị thành hoàng mà ngôi đình làng thờ cúng có một uy lực tuyệt đối đối với dân làng. Trong hoàn cảnh Việt Nam, vị thành hoàng ấy, cùng với quá trình sống dài lâu của một làng, thường hiện diện ở bể nổi là những nhân vật lịch sử. Vì vậy, lễ hội đình thường là lễ hội tưởng niệm một nhân viên lịch sử liên quan tới làng.

Ngoài ra, có một số nhân vật lịch sử được thờ ở đền. Đó thường là những nhân vật lịch sử mà công lao, vai trò, ý nghĩa của họ vượt khỏi phạm vi của một địa phương cụ thể mà mang tầm quốc gia dân tộc (ví dụ đền Trần Thương thờ vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, đền Trúc thờ Lý Thường Kiệt).

Việc các địa phương lập thờ nhân vật lịch sử đó không phải ngẫu nhiên mà là do vùng đất ấy có những mối quan hệ cụ thể với nhân vật lịch sử được thờ, chẳng hạn có khi là quê hương, có khi là nơi sinh hoặc nơi hóa của vị anh hùng, có khi đó là địa điểm ghi dấu chiến công hoặc những sự kiện có thật mà sinh thời người anh hùng đã in dấu tại địa phương đó… Do chồng chất nhiều tầng văn hóa, trong lễ hội các nhân vật lịch sử có thể tiềm ẩn nhiều vỉa tầng văn hóa được chưng cất, được tích tụ nhiều đời thông qua những biểu tượng.

(Nguồn: hanam.gov.vn)


Sáng ngày 08/4/2009, tại đình, chùa Châu, Tiểu khu Châu Giang, thị trấn Kiện Khê, Lễ hội truyền thống khu Di tích Lịch sử Văn hoá đình, chùa Châu năm Kỷ Sửu đã chính thức khai hội.Được xây dựng từ xa xưa và được trùng tu năm Thành Thái thứ 9, là nơi thờ tự các vị thần có công phò vua giúp nước, đình, chùa Châu còn lưu giữ được cuốn Thần phả và trên 20 đạo sắc các triều đại phong từ triều vua Chính Hoá, Cảnh Thịnh và triều đại nhà Nguyễn như: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Đình Châu là nơi thờ Đức Cao Sơn Thượng đẳng thần và Điện suý Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão, một danh tướng triều Trần. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Quân khu III đã chọn chùa Châu làm công binh xưởng rèn đúc vũ khí đạn dược cung cấp cho tiền tuyến. Đây cũng chính là nơi Thiếu tướng Hoàng Sâm về họp bàn chỉ đạo cuộc luyện quân năm 1947, là nơi mở lớp đào tạo y, bác sĩ  khoá đầu tiên của nước ta do giáo sư Hoàng Đình Cầu phụ trách. Nơi đây từng được đón tiếp Phó Thủ tướng Đỗ Mười về động viên nhân dân đóng góp nhân tài, vật lực chi viện cho tiền tuyến. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nhất là qua những năm chiến tranh phá hoại của giặc, nhân dân Châu Giang vẫn giữ gìn được một di sản văn hoá có giá trị là  “Quần thể di tích đình, chùa Châu”.

Lễ hội truyền thống đình, chùa Châu được tổ chức hằng năm ngay tại quần thể di tích đình, chùa Châu, nơi đã được Bộ Văn hoá - Thông tin cấp bằng công nhận Di tích Lịch sử Văn hoá và Thắng cảnh cấp Nhà nước năm 1994. Lễ hội năm nay diễn ra trong ba ngày từ 07 đến 09/4. Lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc với các hoạt động tế, lễ, rước, giao hiếu diễn ra giữa tiểu khu Châu Giang và thôn Tháp. Song song với lễ hội, các hoạt động thể dục thể thao như bóng chuyền hơi, cầu lông, đua thuyền, kéo co… cũng được tổ chức, thu hút sự tham gia của đông đảo nhân dân./.

(Nguồn: hanam.gov.vn)

Đình Thọ Chương là một ngôi đình lớn ở xã Đạo Lý, huyện Lý Nhân (xưa kia là đình thôn Hạ, xã Vũ Xá, tổng Ngu Nhuế, huyện Nam Xang). Đình thờ ông Vũ Lang Nữu, quê ở Thọ Chương, là người có công dẹp giặc, được nhà vua miễn trừ sưu thuế tạp dịch cho dân làng.


Hàng năm, vào ngày 4 đến 6 tháng giêng, nhân dân Thọ Chương nô nức kỷ niệm ngày ông Vũ Lang Nữu thắng trận trở về quê hương, cũng là ngày xã Vũ Xá xưa được triều đình công bố lệnh miễn trừ sưu thuế, tạp dịch. Nghi lễ diễn ra trang trọng. Các giáp Bến, Đoài, Đông, Hệ, Trúc, Giữa thi làm cỗ cúng thành hoàng. Giáp nào cũng chọn gà to, gà béo làm thịt, gài cánh lên đầu, treo túi tiền vào mỏ mới đặt lên ban thờ. Cúng thành hoàng còn có lệ thi làm bánh dày, thi lợn béo. Ngày 20 tháng 7 âm lịch là ngày ông Vũ Lang Nữu qua đời, dân làng cũng tổ chức tế lễ, đọc văn tế ôn lại tiểu sử, nhắc nhở mọi người nhớ ơn thành hoàng.

Song đông vui nhất là dịp dân làng mở hội từ ngày 8 đến ngày 12 tháng giêng. Hội làng Thọ Chương cũng như làng Đồng Lâu gần đó ngoài tôn vinh thành hoàng có ý nghĩa khuyến khích nghề truyền thống quê hương. Trong bài hát của lễ hội có câu:

Vũ Xá đan gầu
Đồng Lâu kéo sợi
Hai bên chờ đợi
Mồng tám, mười hai

Lệ định từ xưa kiệu được rước từ Đồng Lâu lên Thọ Chương rồi rước quay trở lại. Cả hai  đình đều tổ chức tế lễ, ăn giao hảo ngày mồng 8. Đồng Lâu rước lên đến tối mới về. Ngày 12, Thọ Chương rước sang Đồng Lâu chiều lại rước về. Những ngày có đám rước, nhân dân địa phương náo nức tham dự. Nhà nhà đón mời khách thưởng thức chén trà ngon, miếng trầu têm khéo.

Các buổi tối trong hội đình Thọ Chương thường tổ chức diễn chèo. Bức dại tự ghi 4 chữ Vũ ấp huyền ca nhắc nhở dân làng nhớ tới tục lệ ca hát trong lễ hội. Hội làng Thọ Chương không chỉ có rước xách tế lễ, ca hát mà còn có nhiều trò vui như đấu cờ tướng, đấu vật, chơi tổ tôm điểm, trong đó đấu vật là trò chơi cuốn hút nhất. Ngoài các đô vật ở làng, còn có các đô vật ở các xã khác như Đông Lư, Đồng Yên, Mạc Thượng, Mạc Hạ, Phúc Châu về cùng tham dự giải. Các đô vật Thọ Chương thường được giải cao vì tương truyền ở đây xưa kia có người đàn ông rất khỏe, mỗi khi đưa bò ra đồng ông thường cắp bò ngang hông, do đó, ông được gọi là xã Khỏe. Khi vào xới, ông thường giật giải cao về cho làng và để lại truyền thống thượng võ cho dân làng.

Lễ hội đình Thọ Chương cho thấy một điều là, trước khi thờ cúng vị anh hùng của làng, dân làng đã thờ cúng vị tổ nghề. Sự kết nghĩa giao hảo của hai làng Vũ Xá và Đồng Lâu và lễ hội tưng bừng của hai làng càng cho thấy lớp văn hóa sâu xa của việc thờ cúng thành hoàng ở đây. Hai mặt của cuộc sống: làm ăn và đánh giặc luôn đan quyện vào nhau, và ước muốn về một cuộc sống hoà bình an lạc đã được gửi gắm trong niềm tin tưởng về vị thành hoàng mà ý nghĩa mới không làm mờ đi những lớp nghĩa xa xưa hơn.

(Nguồn: hanam.gov.vn)

Lễ hội  được tổ chức tại đình Đá, thôn An Mông, xã Tiên Phong, huyện Duy Tiên, Hà Nam.


Đình Đá thờ Nguyệt Nga công chúa, một tướng tài của Hai Bà Trưng. Ngoài ngày sinh (ngày rằm tháng bảy) và ngày hóa (ngày 12 tháng 10) có tổ chức tế lễ, dâng hương ra, ngày hội đầu xuân được tổ chức vào các ngày 6, 7, 8 tháng Giêng. Trong hội có tế lễ, rước kiệu, lễ tế thần nông và các hội thi như vật cầu, đua thuyền.

Trong lễ tế thần nông, chủ tế và các bồi tế sau khi làm xong nghi thức dân hương, dân rượu, đọc sớ tấu cầu mong bình yên cho dân làng, cầu mong mùa màng tươi tốt thì tiếp tục đến phần rước hương án tế thần ra khu ruộng gần đình đã được cày bừa chuẩn bị trước. Đoàn người đi theo hương án tế thần, có cả người gánh vài bó mạ, dăm cây lau, tay cầm cành tre, con dao và bó hom dâu. Khi ra tới ruộng cấy lúa và bãi, trồng dâu thì đoàn người đặt hương án lên bờ ruộng, còn dân làng thì đứng vây quanh. Chủ tế và bồi tế là người được phân công thay mặt dân làng lội xuống ruộng cấy ít hàng lúa và trồng ít hom dâu tượng trưng. Dân làng vây quanh hò reo, hoà với tiếng chiêng, trống tỏ niềm vui mừng, đón chờ một mùa bội thu sắp tới. Cùng với tiếng hò reo, dân làng còn té nước ruộng vào người cấy, người gánh mạ, người vác hom dâu, người cắm cành tre, cắm cây lau dưới ruộng. Mọi người cầu mong mưa thuận gió hoà cho cây lúa, cây dâu lên khoẻ như lau, cứng như tre để vượt qua mọi thời tiết khắc nghiệt để có mùa lúa, mùa dâu tươi tốt, dân làng có cuộc sống ấm no hạnh phúc như lời cần khẩu của dân làng An Mông:

                                      Cầu cho hoà cốc phong đăng
                                 Cây dâu cũng tốt, con tằm cũng tươi

Trò đưa thuyền trên sông Châu được tổ chức tại khu ngã ba sông ở phía đông xã Tiên Phong (hiện nay là đập Quang Trung), đó là nơi tương truyền bà Nguyệt Nga tử tiết và là nơi thuyền rồng xuất hiện đón bà xuống thuỷ cung. Hội thi thường tổ chức hai chiếc thuyền lớn, đầu làm như hình rồng, đuôi tựa đuôi tôm. Mỗi thuyền bố trí một người lái, một người mặc áo đỏ, chít khăn, tay cầm mõ, gõ theo nhịp chèo động viên đội bơi. Mũi thuyền có hai phách cầm chèo hai bên để bắt nhịp cho các mái chèo, hai bên mạn thuyền mỗi bên có 12 người chèo. Như vậy, mỗi thuyền bơi thi phải huy động tới 28 người có áo quần khăn đồng bộ, tắm gội sạch sẽ, lên đình lễ thánh rồi mới được nhập đội thi. Đường bơi thường tổ chức trên đoạn sông dài hơn một cây số, có thể bơi hai hoặc ba vòng, thuyền của giáp nào về đích giật được cành nêu là thắng cuộc. Giáp thắng cuộc sẽ được giải thưởng, đồng thời cùng cả giáp ăn mừng thắng lợi. Năm ấy mọi người tin rằng được thánh phù hộ sẽ gặp may.

Trò vật cầu được tổ chức để tưởng niệm việc luyện quân của bà Nguyệt Nga. Theo truyền thuyết, bà thường tổ chức trò chơi này để tăng cường sức khoẻ cho quân lính. Đội vật cầu ở đây cũng có nhiều nét tương tự với hội vật cầu ở làng Gừa ở Liêm Thuận, Thanh Liêm, nhưng ở đây có nét khác là có hội vật cầu lão (cho đàn ông trên 50 tuổi). Tính chất lễ và tính chất hội đậm đà của hội thi này làm nên không khí tưng bừng náo nhiệt của ngày hội đầu xuân, thể hiện nhu cầu thăng hoa tinh thần cao cả của người dân trong lễ hội.

(Nguồn: hanam.gov.vn

Đền Lảnh Giang ở thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên thờ Tam vị Đại Vương thời Hùng Duệ Vương có công đánh Thục và thờ Tiên Dung. Một năm ở đây có hai kỳ lễ hội vào tháng 6 và tháng 8 âm lịch. Kỳ hội tháng 6 diễn ra từ ngày 18 đến 25 dành, kỳ hội tháng 8 diễn ra vào ngày 20.


Ngày 18 tháng 6 âm lịch, nhân dân địa phương tổ chức chồng kiệu, kéo cờ than trước cửa đền, ngày 21 bắt đầu làm lễ cáo kỵ. Các ngày từ 22 đến 24 tháng 6 là ngày chính tế và rước kiệu Thánh xung quanh đền. Ngày 25 tháng 6 tổ chức lễ tạ và hạ cờ, đóng cửa đền. Ngày 25 tháng 8 âm lịch, đền Yên Từ (xã Mộc Bắc, Duy Tiên) thờ Ngọc Hoa công chúa rước kiệu về bái vọng. Ngoài các nghi lễ như tế lễ, rước thánh còn có phần hội hết sức phong phú như múa rồng, múa lân, chiếu chèo sân đền, hát chầu văn, võ vật, đấu cờ người, tổ tôm điếm, múa sư tử, thổi cơm trên quang gánh, chọi gà, đuổi vị dưới nước, đi cầu khỉ…

Lễ hội vào tháng 6 còn có trò bơi chải trên sông Hồng và lễ rước nước. Nước được lấy từ giữa sông Hồng đem về làm nước cúng và làm lễ tắm tượng của các đền trong khu di tích. Nghi thức lấy nước giữa dòng sông Hồng để thờ cúng và tắm tượng vừa biểu thị nguyện vọng cầu xin mưa thuận gió hòa, vừa thể hiện khát vọng chinh phục thiên nhiên của nhân dân ta. Căn cứ vào tục thờ, căn cứ vào vị trí của đền bên bờ sông, có thể nhận thấy rằng, các vị thần mà đền Lảnh Giang thờ tuy có tên tuổi sự tích nhưng kỳ thực là những vị thủy thần. Và cũng như các nơi thờ cúng thủy thần khác, tục thờ cúng thủy thần ở đền Lảnh Giang thể hiện hai mặt của đời sống tâm linh: khát khao được thần thiên nhiên chở che và ước muốn chế ngự được sức mạnh của thiên nhiên hung hãn đó.

Ngày nay, rất đông khách thập phương đến lễ và tham quan đền Lảnh cùng khu di tích ở đây. Có nhiều năm nước ngập, khách thập phương cùng nhân dân địa phương bơi thuyền ra đền dâng lễ và thực hiện các nghi thức đầy đủ để tỏ lòng tôn kính tam vị danh thần và Tiên Dung. Ngoài 2 kỳ hội chính, du khách gần xa vẫn tìm về đây cầu tài, cầu lộc. Phương ngôn có câu Trăm cảnh, nghìn cảnh không bằng bến Lảnh đền Mây là để nói đến sức hấp dẫn của một di tích mà vị trí, cảnh quan, sự tích và lễ hội đều đáp ứng nhu cầu tâm linh của người về hành lễ.

Nguồn: hanam.gov.vn

Đình Đinh thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thương cùng con ông là Đông Xưng đại vương Đoàn Văn, các trung thần của triều Lý, Đông Bảng đại vương triều Lê cùng các vị tiên hiền, các vị có công lập làng. Tương truyền, làng Đinh là nơi mà Đoàn Thượng đại vương đến tìm thầy học và cũng là quê vợ của ông. Khi ông mất, con trai ông là Đoàn Văn cùng nhân dân Đinh Xá lập đền thờ. Hàng năm, cứ vào ngày sinh của Đông Hải đại vương Đoàn Thượng (10 tháng Giêng âm lịch), làng Đinh lại tổ chức lễ hội để tưởng nhớ bậc trung thần.


Lễ hội được tổ chức từ ngày 9 – 12 tháng Giêng âm lịch. Ngoài tế lễ, dâng hương, lễ hội làng Đinh còn có lễ rước nước và lễ khai độc

Cứ 3 năm một lần, làng Đinh và làng Thủy Cơ (xã Châu Sơn, Duy Tiên) lại tổ chức lễ rước nước để tưởng niệm vị Đông Hải đại vương và để thể hiện mối giao hảo giữa hai làng. Thủy Cơ là một làng chài chuyên nghề sông nước. Làng Đinh đã dành một khu đất cho làng Thủy Cơ để một khi có người qua đời thì mai táng ở đó. Do đó, hai làng có mối quan hệ rất thân thiết. Khi vào lễ hội, làng Thủy Cơ cung cấp 5 chiếc thuyền lớn để đi rước nước.

Ngày mùng 9, đình Đinh mở cửa, dân hai làng vào lễ thánh, sau đó rước kiệu, cờ, bát biểu, chiêng trống, đội bát âm cùng đội bơi chải xuống thuyền. Trên thuyền có hai chóe sành được mang theo để đựng nước. Đoàn thuyền bơi đến ngã ba sông Móng, bơi rước 3 vòng, sau đó lấy nước đựng vào chóe, dâng lên kiệu rồi bơi thuyền trở về đình. Chóe nước được đưa vào đình để hôm sau tế lễ. Đội hình tế là tế nam, có chủ tế, xướng tế và bồi tế. Khi tế, đội hình tiến từ sân đình qua tiền đường, vào hậu cung. Trong khi tế, ngoài sân đình có múa rồng, sư tử, đánh gậy, thổi cơm thi, bắt chạch, trên sông Châu thì tổ chức bơi chải.

Hàng năm cũng vào dịp lễ hội mùng 10 tháng Giêng, ở đình có tổ chức lễ khai đọc (mang sắc phong ra đọc dịp dầu năm mới) do hàng xã chủ trì. Chủ tế là chánh tiên chỉ, các tiên chỉ làng là bồi tế. Trước khi vào ngày lẽ, tối mùng 9 có rước sắc từ nhà tiên chỉ ra đình rồi làm lễ khai độc. Ngày màng 10, tổ chức rước hành ngơi (đi chơi trên đường) có kiệu, có cờ quạt, bát biểu… Ngày 11, sau khi tế tạ xong, rước lộ nhang sắc và các sắc phong về nhà tiên chỉ, đóng cửa đình.

(Nguồn: hanam.gov.vn

Hội thi thả diều được tổ chức tại làng Đại Hoàng, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam.


Làng Đại Hoàng từ xưa đã có hội thả diều để mừng được mùa và cầu mong an khang thịnh vượng.

Địa điểm tổ chức thi thả diều ở đình nội, đình ngoại và đình trong. Phía trước đình là hồ cá và đầm sen, trước nữa là cánh đồng làng đất cát pha, tháng năm sau vụ gặp rất khô ráo và bằng phẳng. Khu đình, hồ cá, đầm sen, đông làng đều hướng về phía đông nam. Do vậy, khi đàn diều no gió bay lên cao thì diều theo gió đông nam mà hướng về phía đình thờ thành hoàng, trông giống như đàn chim bay về tổ.

Trước đình làng có một cổng lớn, trên nóc cổng có phù điêu bọc trứng rồng tượng trưng cho cộng đồng tổ tiên nòi giống Việt. Cột cờ là một cây gỗ lim đồ sộ, một người ôm không xuể, được đặt trên một bẹ đá lớn. Trên đỉnh cột cờ có hình một con chim lớn, kéo dải cờ đào dài 20m bay trên cao.

Mười bốn giáp trong làng đều tham gia thi thả diều, mỗi làng có một mẫu riêng để dễ phân biệt. Việc làm diều được chuẩn bị chu đáo từ tháng 11 âm lịch năm trước. Các cụ già thường chọn các cây tre già dài, thẳng, mịn đã rụng hết lá để pha, chẻ, chuốt thanh các nẹp để làm khung diều, gác lên bếp hong cho khô tới tháng 5 năm sau. Vào tháng 4, các cụ còn lấy nhựa từ từ trái hồng non làm keo dính dán bồi giấy, dán giấy lên khung diều. Dây diều to được xe bằng tơ tằm, dây diều nhỏ được kết bằng chỉ khâu. Ngoài ra còn phải làm một ống suốt cực lớn, hai đầu có bánh xe để cuộn dây, nhả dây nhanh.

Hình dáng của diều làng Đại Hoàng đều có hình thoi, phẳng. Khi diều bay trên cao, cánh phẳng, thanh thoát, khi diều hạ cánh, cánh diều lao vút như một mũi kiếm đâm xuyên lòng đất.

Sáng ngày 15/5 âm lịch, làng bắt đầu thi diều lớn. Một hồi trống chiêng nổi lên giòn giã. Ban chủ khảo và các đấu thủ đền ăn mặc đẹp, đầu chít khăn, áo dài, quần bó, thẳng lưng ngũ sắc. Mỗi đội dự thi có 3 người tham gia, một người cầm dây diều, một người điều khiển diều, một người đâm diều lên cao. Khi các đấu thủ đã đứng vào vị trí trên cánh đồng làng, ban chủ khảo thắp hương để tính giờ. Một hồi trống nổi lên, loa bắt đầu gọi, diều được đồng loạt lao lên, ăn dây. Người điều khiển phải giật dây, chỉnh cho diều lên thật từ từ. Khi no gió, diều lao vút lên cao, đậu trên tầng không, nhỏ dần, nhỏ dần đến khi trông như một chiếc lá. Tiếp đó lại một hồi trống nữa, có tiếng loa truyền: Loa! Loa! Các diều đấu dây vào nhau để bắt đầu chấm giải. Trên cánh đồng, các đấu thủ đi về một điểm. Trong sân đình, ban chủ khảo bàn bạc để chấm giải diều. Tiếp đó, diều được lệnh cho hạ cánh. Cách mặt đất chừng 30m, diều được điều khiển sao cho lao xuống như một mũi tên bắn thẳng, cắm đứng trên cánh đồng. Xong xuôi các đấu thủ cùng về sân đình nghe chủ khảo tuyên bố giải.

Cuộc chơi kết thúc nhưng niềm vui và sự hưng phấn còn đọng mãi trong những đấu thủ và người xem. Họ đã được thả hồn trong sự bay lượn phóng khoáng của những cánh diều trên bầu trời thanh cao, họ còn được sống trong những phút hồi hộp cùng với các đấu thủ để chờ xem giải. Đó là những giây phút hiếm hoi giúp con người thoát ra khỏi cuộc sống đều đặn thường nhật để vươn tới những thăng hoa tinh thần đầy hứng khởi, giúp mỗi một người hòa nhập một cách trọn vẹn vào với cộng đồng. Đối với người Việt Nam nhu cầu về sự thức tỉnh tính cộng đồng trong mỗi con người tùy từng lúc có những biểu hiện khác nhau nhưng có lẽ chưa bao giờ nguội lạnh. Chính vì vậy mà hội hè vẫn luôn có một sức hấp dẫn mạnh mẽ.

Làng Dâu còn gọi làng Mỹ Đôi, thuộc xã An Mỹ, huyện Bình Lục. tỉnh Hà Nam, nằm trên địa bàn có bề dày lịch sử. Nơi đây, nhiều sự kiện chiến tranh tự vệ của nhiều lịch đại đã diễn ra, nhưng đậm nét hơn cả, vẫn là sự tích ba chị em ả Đào, Nguyễn Phương, Nguyễn Quế chỉ huy nghĩa binh đánh giặc Minh đầu thế kỷ XV.


Theo Ngọc phả đình Dấu và truyền thuyết địa phương do các cụ Nguyễn Văn Ban, Nguyễn Văn Bàn, Nguyễn Văn Hán là người địa phương cung cấp thì thân phụ của chị em ả Đào từ vùng Tiên Lữ Hưng Yên, sang xã Bồ Xá Bình Lục lấy vợ lẽ là Thị Hương và sinh được ả Đào, Nguyễn Phương, Nguyễn Quế. Hồi đó giặc Minh xâm lược nước ta, sát hại sinh linh, cướp phá tài sản, gây nhiều thảm cảnh ở Trang Cổ Thọ (nay thuộc xã An Mỹ).

Trước những hành động bạo ngược của giặc Minh ngày ngày diễn ra, các bô lão Cổ Thọ sang làng Bồ Xá cầu cứu viện binh đánh giặc. Nghe qua tình hình, ả Đào bàn với hai em và dân làng tìm cách đánh giặc trừ hại cho dân.

Nghĩa binh hai làng Bồ Xá, Cổ Thọ quyết định đánh úp căn cứ giặc Minh. Vào lúc nửa đêm ngày 14 tháng 2, ả Đào chia quân làm ba đạo, phối kết hợp với dân làng Cổ Thọ tập kích phá đồn giặc. Trước giờ xuất phát, nghĩa quân lấy bánh dầy làm lương ăn, lấy mía thay nước và tuyệt đối không dùng lửa. Trận tập kích phá đồn giặc thành công. Nhân dân cổ Thọ được giải phóng, lấy lại sự thanh bình cho làng quê.

Để ghi nhớ công ơn những người anh hùng cứu dân, cứu nước, nhân dân địa phương đã thiết lập đền thờ trên các đường tiến quân. Do vậy mà làng Dâu có ba ngôi đền nhỏ ở ba phía, mỗi đền thờ một vị tướng như ả Đào tiên chúa, Nguyễn Phương đại vương, Nguyễn Quế đại vương.

Nhân dân làng Dâu còn xây dựng ngôi đình to lớn mái cong, với sự gia công nghệ thuật điêu khắc công phu để làm nơi cộng đồng thờ chung các vị và qua nhiều thời đại, đều được Sắc phong với lời lẽ tốt đẹp. Điều đặc biệt là lệ làng lấy ngày 15 tháng 2 để trình diễn  “Phá đồn minh binh, diễn khai sự tích" (mở cuộc thao diễn sự tích đánh đồn giặc Minh). Lễ hội có hai phần:

- Phần chuẩn bị được các Giáp thực hiện rất cẩn trọng. Các Giáp phải thi nhau nuôi lợn béo và sạch, để lấy thịt cúng thành và diễn khai sự tích. Phải chọn gạo làm bánh dầy, sao cho bánh trắng, ngon và dẻo. Thi nhau trồng hoặc mua loại mía ngon, mềm và hoa quả vừa làm lễ vật vừa tượng trưng cho lương thực, dùng trong chiến trận của các tưởng khi đánh giặc. Những lễ vật này được hội đồng chấm thi cân nhắc, xét thưởng theo từng loại nhất, nhi, ba.

Các Giáp còn có phận sự chặt cành cây, cắm xung quanh khu miếu ờ phía đông nam bình Dâu, giả làm đồn binh của giặc, đồng thời bố trí một số nơi giặc đóng trong xóm. Nhà nào được chọn là vị trí đóng quân, thì người trong nhà phải chấp nhận đóng vai quân Minh, đến đêm phải thắp đèn báo hiệu và khi quân của tiên chúa ả Đào đánh đến, nằm lăn ra giả chết, mặc cho nghĩa quân khiêng vứt ra khe, rãnh phía nam đình Dâu.

Trước khi vào hội, làng phải chuẩn bị nhân lực, bố trí làm ba cánh quân. Đặc biệt là tìm người có phúc, có đủ phẩm hạnh đóng vai trò ả Đào tiên chúa và hai vị đại vương Nguyễn Phương, Nguyễn Quế. Đồng thời phải chọn người múa rồng và đóng vai Chử Đồng Tử tiên ông… Tóm lại, lệ làng Dâu về chuẩn bị khai diễn sự tích phá đồn giặc Minh khá cụ thể, nếu các Giáp chuẩn bị thiếu chu đáo sẽ ảnh hướng đến lễ hội, do đó mọi người, mọi nhà được phân công phải lo lắng chuẩn bị, tập duyệt phần việc của mình một cách nghiêm túc.

- Phần thao diễn sự tích được triển khai sau khi tế lễ, vào giờ Tý đêm 14 rạng 15 tháng 2 âm lịch. Đến lúc này, mọi nơi (từ đình, chùa đến nhà tư) thực hiện cấm lừa như lệ làng đã ghi: “Thử gian bài binh, bất khả phát yên, duy thủ bạch viên binh, khiến sinh dĩ hường quân sỹ" nghĩa là thời gian dùng binh không được phát lửa, dùng thịt lợn, bánh dầy cho quân ăn. Truyền thuyết còn cho biết:  Nước uống được thay bằng mía.

Các đạo quân được bố trí tại ba hướng:

Đạo phía Nam do Nguyễn Phương làm tướng, 'đạo phía Đông do Nguyễn Quế chỉ huy, còn đạo phía Tây do chính ả Đào tiên chúa cầm linh phù làm tướng soái. Cả ba đạo quân tiến từ ba phía về khu miếu có cành cây cắm xung quanh, tượng trưng vị trí đóng quân của địch. Bên trong khu miếu “quân xanh" được mặc áo, quần, thắt lưng như quân đội nhà Minh, từng tốp, từng tốp nằm, ngồi vạ vĩnh bên các bình rượu. Khi 9 hồi chiêng trống vang lên thì cả ba đạo giáp công, giao chiến một ngày, một đêm thì quân giặc đại bại bỏ đồn  chạy trốn. Sau đó ba đạo quân chia nhau tấn công các căn cứ nhỏ đóng trong làng. Gia đình bố trí làm nơi quân Minh đóng thì châm đèn báo hiệu. Nghĩa quân ào ạt tấn công, tiêu diệt lần lượt các vị trí, rồi khiêng "xác giặc" ra khe phía nam làng Dâu, vứt xuống để giải quyết hậu quả. Sau đó đoàn quân kéo về đình tụ hội.
Trước sân đình, bỗng xuất hiện con rồng vàng, trên lưng rồng có tiên ông Chử Đồng Tử, tay cầm quạt vẫy gọi tiên chúa và hai tướng Nguyễn Quế, Nguyễn Phương. Cả ba người chạy ra phía đuôi rồng rồi như bay xa dần, trong khi đó thì dân làng dơ tay vẫy vẫy, hoặc chắp tay chào vĩnh biệt, vẻ bùi ngùi xúc động, cảm phục biết ơn.

Lệ ngạch trong lễ hội đình Dâu, thôn Mỹ Đôi xã An ỉvlỹ huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam, với những tình tiết diễn tả cuộc chiến, phù hợp với nội dung lịch sử và tín ngưỡng dân gian, làm sáng tỏ thêm sự kiện lịch sử mà nhân dân địa phương tham gia đánh phá giặc Minh.

Bên cạnh lệ thao diễn phá đồn giặc Minh, làng Dâu còn lệ đào "cốt khí” (đào xương người chết). Lệ này thường diễn ra trong xóm phía nam đình. Theo truyền thuyết, xóm này nguyên xưa là vùng trũng, có lạch nước chảy qua. Thế kỷ XV khi giặc Minh chiếm đóng vùng, bị dân binh địa phương tiêu diệt và xác giặc được tập trung vùi chôn ở vùng trũng, sau này đất cao dần do san lấp, lại có sự tôn đất thành nền nhà, thành xóm, nhưng phía dưới vẫn còn xương người. Truyền thuyết địa phương nói tới việc bất ổn về sức khoẻ trong xóm do "âm khí giặc Minh" gây ra… Do vậy, từ lâu đời, dân làng Dâu phải đào đất tìm xương người đem chôn nơi khác. Có nhà phải cậy sân, đào sâu trong lòng đất tìm xương người, có nhà phải đào cả nền nhà lấy xương đem chôn nơi khác... Tục này có màu sắc duy tâm, song việc làm có thật này lại liên quan đến sự kiện lịch sử đánh giặc Minh, góp phần làm sáng tỏ thêm về mảnh đất con người thế kỷ XV ở làng Dâu, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

Video lễ hội

Vật Liễu Đôi là một lễ hội làng tiêu biểu của văn hoá Hà Nam. Hàng năm, vào ngày 05 tháng giêng âm lịch, tại làng Liễu Đôi, xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam lại diễn ra lễ hội vật để ghi nhớ công lao của chàng trai họ Đoàn giỏi võ đã có công đánh giặc cứu nước.

Hai đô vật so tài trận mở màn lễ hội vật Liễu Đô


Liễu Đôi là một mảnh đất giàu truyền thống thượng võ. Ở đây có hội vật nổi tiếng, thu hút các đô vật gần xa đua tài.

Nghi thức tiến hành hội như sau: mở đầu lễ hội là Lễ rước Thánh vào dóng. Dóng tức là nơi tổ chức vật, rước thánh vào dóng nghĩa là rước kiệu Thánh Ông từ đền vào nơi tổ chức vật. Lễ vật dâng thánh là lễ chay, gồm mấy phẩm oản, vài bẹ chuối, một nậm trà (thay cho rượu). Một cụ già tay cầm gươm đi giật lùi dẫn đầu cuộc rước, khi kiệu Thánh vào dóng thì làm lễ tế. Sau lễ tế Thánh là Lễ phát hoả. Người ta đốt lên một ngọn lửa lớn để tưởng nhớ lại ngọn lửa xanh thần diệu bốc lên từ thanh gươm phát hỏa mà trời ban cho đất Liễu Đôi ở cánh Nương Cửi. Tiếp đó là Lễ trao gươm và thắt khăn đào tưởng nhớ việc chàng trai họ Đoàn nhận thanh gươm thần và tấm khăn đào. Ông Trùm là một người cao tuổi có uy tín được cử cầm trống cái cho hội trao chiếc gươm trên kiệu thánh và thắt khăn đào cho một đô vật danh dự được cử ra.

Lễ hội bắt đầu từ sáng mồng 5 và kết thúc vào mồng 7 Tết

Lễ rước được cử hành trang trọng từ đền Ông đến xới vật.

Hội vật võ Liễu Đôi cho phép phụ nữ được tham gia, chị em cũng đao, côn, kiếm, quyền… không thua kém con trai

Lễ tế tưởng nhớ thánh Tiên Ông - Tiên Bà có công đánh giặc phuơng Bắc.

Kinh phí tổ chức lễ hội có phần lớn là từ đóng góp công đức của nhân dân và du khách thập phương.

Hội vật võ có nhiều nghi thức bắt buộc. Đầu tiên là năm keo trai rốt (hai trai làng ra đời cuối cùng trong năm qua). Mở đầu cuộc đấu vật, làng gọi tên hai trai rốt ra vật năm keo trình làng, lễ thánh. Tất nhiên trai rốt còn bé chưa vật được nên bố phải vật thay.

Lệ quy định, hai ông bố chỉ vật biểu diễn, không được vật thật để đối phương ngã.


Các đô vật phải từ 16 tuổi trở lên mới được đăng kí, thi đấu loại trực tiếp.

Lễ hội đền Trần Thương thuộc xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam là lễ hội được tổ chức thường niên nhằm kỷ niệm ngày mất của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Năm nay, lễ hội được tổ chức qui mô từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 9 (tức là 18 – 20/8 âm lịch) để kỷ niệm 710 năm ngày mất của ông đã thu hút đông đảo nhân dân và du khách thập phương.
       Đây là một trong những hoạt động văn hóa mang đậm giá trị truyền thống của người dân xã Hưng Đạo nói riêng và người dân Hà Nam nói chung. lễ hội nhằm nhắc nhở cho những thế hệ con cháu tưởng nhớ tới công lao to lớn của vị tướng tài giỏi đã 3 lần đánh đuổi quân xâm lược Nguyên Mông ra khỏi bờ cõi nước ta.
Đến với lễ hội đền Trần năm nay, du khách không chỉ được tham gia những trò chơi dân gian đặc sắc như kéo co, bịt mắt đập niêu, bắt vịt dưới nước… mà còn được tận mắt chứng kiến những câu hát, điệu múa trong Liên hoan văn hóa truyền thống các di tích tiêu biểu huyện Lý Nhân.
Hiện nay, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn được nhân dân thờ tự ở nhiều nơi nhưng có thể thấy Đền Trần Thương ở huyện Lý Nhân là một trong những ngôi đền bề thế, quy mô, có thể so sánh vị trí với những nơi thờ Ngài lớn nhất trong cả nước. Ghi nhận điều này, dân gian ta có câu “sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc”chính là để nói đến địa danh Trần Thương. Cứ vào dịp tháng tám âm lịch hàng năm, nhân dân nơi đây lại tổ chức lễ hội Đền Trần vừa là để tưởng nhớ công lao của vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn vừa là đề tạo cơ hội để quảng bá với du khách thập phương về miền đất Hà Nam  chiêm trũng nhưng giàu bản sắc dân tộc.



      


 Lễ hội chùa Long Đọi Sơn năm nay diễn ra trong 5 ngày từ ngày 30/4 đến ngày 4/5 hàng năm tại xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam với nhiều hoạt động phong phú, hấp dẫn.

Chính thức khai mạc vào ngày 30/4, tham dự lễ hội có đoàn đại biểu đại diện cho Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân các tỉnh, huyện lân cận; Các đồng chí lãnh đạo cấp xã, huyện, tỉnh Hà Nam; Các tăng ni phật tử cùng đông đảo bà con nơi đây và du khách thập phương.
Sau dàn trống tưng bừng khí thế nổi lên là lễ dâng hương lên cửa Phật được bắt đầu trong không khí trang nghiêm, tôn kính. Đoàn rước kiệu hành lễ từ chân núi lên chùa làm lễ dâng hương, tưởng niệm vua Lý Nhân Tông. Sau đó, các đội tế nam quan, nữ quan làm lễ tạ ơn trời phật đã ban cho nhân dân nơi đây một năm đầy ấm no và hạnh phúc.
Phần hội có các trò chơi dân gian như: đánh cờ người, đấu vật... và các tiết mục biểu diễn văn nghệ được tổ chức làm cho không khí lễ hội tưng bừng, náo nhiệt.
Long Đọi Sơn là ngôi chùa cổ được xây dựng từ năm 1054 với nhiều nét văn hoá nghệ thuật kiến trúc tinh xảo, mang đậm dấu ấn qua các thời kỳ lịch sử. Đến với lễ hội du khách được chiêm ngưỡng nhiều di vật cổ vật quý giá từ thời xưa được lưu giữ và bảo tồn trong chùa. Trong số “Tám vị thần nhân cầm kiếm” của Tháp Sùng Thiện Diên Linh, ngày nay chùa vẫn còn giữ được 6 pho là các tượng Kim Cương cao 1,6m, thể hiện các thần tướng nhà Trời đi hộ vệ Đức Phật. Số di vật thời Lý mà nhà Chùa còn bảo lưu được, có 2 pho tượng hình người cánh chim cao 40 cm, rộng 30 cm, cùng rất nhiều mảng đầu rồng, đầu thú bằng đất nung, gạch hoa văn thời Lý.
Trong kháng chiến chống Pháp hầu hết kiến trúc cổ của chùa đã bị tàn phá, đến khi hòa bình lập lại mới được nhân dân trùng tu tôn tạo và phục dựng lại.
Ngày nay, chùa Long Đọi Sơn đã là một quần thể kiến trúc khang trang, với khuôn viên xây dựng rộng tới 10.000m2, giữa diện tích rừng rộng 1ha. Hệ thống đường lên từ cổng chùa dưới chân núi Đọi lên đến Tam Quan đuợc lát bằng đá cứng, với khoảng 300 bậc.
Tổ chức Lễ hội chùa Long Đọi Sơn hàng năm còn là dịp để các đại biểu cùng du khách thăm quan, vãn cảnh chùa,  đồng thời cũng thoả mãn nhu cầu tâm linh, tưởng nhớ về cội nguồn dân tộc.
Lễ hội kết thúc vào ngày 4/5 dương lịch.


Dưới đây là một số hình ảnh chúng tôi ghi lại được vào sáng ngày 8/4/2012 tại Lễ hội chùa Long Đọi Sơn năm 2012:


 Dòng người đổ về Lễ hội chùa Long Đọi Sơn chật kín.

 
Những tiết mục văn nghệ mang đậm chất dân gian tại Lễ hội.

Những tấm bia khắc chữ Nhân của các vị vua trong những chuyến đi thăm nơi đây.

Những trò đoán tướng số tràn lan khắp lối ra vào.


 Những trò bạo lực dùng súng bắn đạn nhựa diễn ra tại Lễ hội.

Rất đông lực lượng an ninh tham gia bảo vệ Lễ hội, tuy nhiên do lượng du khách quá đông nên không thể kiểm soát hết?