vietnamese Tiếng Việt english English
Hôm nay:
Tin mới đăng:

 Về thăm nghệ nhân Hà Thị Cầu chúng tôi mơi cảm nhận được cuộc sống thường nhật của người nghệ nhân hát xẩm nỗi tiếng này.
Nghệ nhân hát xẩm Hà Thị Cầu (tên thật là Hà Thị Năm) Sinh ra ở Ý Yên- Nam Định. Tưởng chừng như cuộc sống của người nghệ nhân độc nhất vô nhị đã bước sang tuổi 93 ấy giờ chỉ còn là những phút thư nhàn, thanh thản sau những giông gió của cuộc đời phiêu bạt. Thế nhưng, phải về tận ngôi nhà để thăm và để thấy cuộc sống thường nhật của nghệ nhân Hà Thị Cầu, chúng tôi mới cảm hết được một nỗi thê lương của cả cuộc đời bà...
“Mẹ là người hát xẩm giời đày...”

Lần theo những dòng ký ức vốn đã chập chờn như ngọn đèn dầu leo lắt trong tâm trí của người đàn bà phiêu bạt, cụ Hà Thị Cầu nhớ lại: "Kiếp hát xẩm ám vào đời tôi bắt đầu từ bà nội vốn nức tiếng về ca xẩm vùng Ý Yên hồi đầu thế kỉ XX. Ngày ấy, xẩm rất thịnh hành và có mặt trong hầu hết các sinh hoạt cộng đồng từ chốn đình chùa đến nơi kẻ chợ. Vì vậy, dẫu đói kém nhưng những người theo nghề xẩm cũng có được cái ăn".
Người đàn bà ca xẩm đất Ý Yên thời ấy sinh được duy nhất một người con gái lòa mắt, sau này cũng vào nghề hát xướng và lấy một người đàn ông mù đàn ca sáo nhị. Cả nhà ba người, hai mù, một sáng mắt lập ra gánh hát đi khắp đầu phố cuối sông. Phiêu dạt khắp các hang cùng ngõ hẻm, ga tàu xó chợ vậy mà đôi vợ chồng mù cũng sinh được bảy người con nhưng đứa còn đứa mất.
Từ nhỏ, Hà Thị Năm đã dạn dày mưa gió, cơm đường cháo chợ lưu lạc đó đây từ chưa đầy tuần. Thế rồi, những làn điệu xẩm như Huê tình, Hà liễu, Ba bậc, Thập ân, Cò lả, Thập sầu, Hành vân, Ca nam... nhập vào cô. Nó tự nhiên như những lời nói cất lên hàng ngày chú ơi, ông ơi, nó sung sướng, chất đầy cảm xúc như lúc người ta bỏ vào tay Năm những đồng cắc, đồng xu hãy còn nóng hổi.
Mười tuổi, khi đã biết đủ ngón nghề của một ca xẩm (tự hát, tự phách và kéo nhị) là lúc đôi lưng của người bà rạp xuống gốc cây gạo, nặng nề chút hơi thở cuối cùng nơi phố chợ hiu hắt. Tiếp sau là người cha mù lòa cũng không còn cất nổi tiếng và bỏ lại cuộc đời đàn ca nhị phách cho người vợ cùng con nhỏ. Hà Thị Năm lại dắt díu người mẹ mù lòa cất tiếng xẩm thân phận trôi dạt sang Yên Mô - Ninh Bình.
Mang tiếng "xướng ca vô loài" giữa cuộc đời xuôi ngược, dẫu nhan sắc cũng chẳng kém cạnh ai, giọng hát làm chạnh lòng biết bao tài tử, cô thiếu nữ đang độ xuân thì Hà Thị Năm chấp nhận về sống đời vợ chồng với ông trùm xẩm mù Nguyễn Văn Mậu nhiều hơn tuổi cha mẹ cô, và đã qua 17 đời vợ.
Ông trùm xẩm Nguyễn Văn Mậu, người có 6 gánh hát ở đất Yên Mô, nhưng gia tài cũng chỉ có cơm niêu nước thùng, với một mái xiêu bốn bên gió lùa, chừng 20m2 nằm ở xã Yên Phong - Yên Mô. Qua 17 đời vợ nhưng ông Mậu vẫn không có lấy một mụn con, nhưng khi nên duyên với Hà Thị Năm đã liên tiếp sinh 7 đứa con.
Nhớ lại những nhọc nhằn của quãng thời gian năm nào đã trôi xa vào ký ức, cụ Cầu vẫn rùng mình như thể nỗi kinh hoàng mới trải qua. Vừa sinh Mận (con gái đầu lòng) được ba ngày cô Năm đã phải trao con cho bà cả để ra chợ ngồi hát. Người sản phụ mới sinh con ba ngày tuổi vừa hát vừa thắt ruột, thắt gan, nhoi nhói như kim châm nơi vùng ổ bụng chưa lành cuống nhau. Thế mà vẫn phải hát để nuôi con, có lúc tưởng kiệt sức, không cất được nổi giọng đành phải uống rượu để cầm hơi, lấy sức.
Bảy lần sinh nhưng chỉ nuôi được ba, 71 tuổi ông Mậu qua đời, cô Năm còn bụng mang dạ chửa người con út. Câu chuyện về người con út là một câu chuyện dài và ly kì mà cho đến tận bây giờ nhiều lúc cụ Hà Thị Cầu vẫn không dám tin đó là sự thật. Ngay sau khi sinh cậu út, do không có gì nuôi, cụ đành phải đứt ruột cho đi cậu con trai tên Cầu. Đó chính là nguyên do mà ngay sau này ca nương lừng danh một thời đã đổi tên thành Hà Thị Cầu, mong rằng có ngày đứa con lưu lạc nhà người sẽ tìm về bên mẹ. Khi cho đi đứa con, cô chỉ kịp nói với người nhận nuôi và với Cầu một câu: "Mẹ là người hát xẩm giời đày tên Năm", rồi im lặng cúi xuống để người ta bế Cầu đi. Những nỗi đau mất mát, những ấm ức của một đời cầm ca đã khiến giọng ca của bà chơi vơi nhẫn nhục tủi hờn khôn xiết mà rắn rỏi, cương cường. Nó như để chống lại sự nghiệt ngã và bạc bẽo kiếp giời đày. Chính tiếng hát ấy sau này đã giúp bà tìm được anh Cầu và nó cũng đã đưa bà lên thành một người hát xẩm có một không hai của Việt Nam còn lại.
Câu ca nghẹn ngào

Bộ đồ nghề hát xẩm của nghệ nhân
Do ở xa, trước khi đến thăm bà Cầu tôi đã gọi điện trước cho một người làm công tác quản lý văn hóa, nghệ thuật ở Ninh Bình, anh bảo: "Nhà bà Cầu ở ngay thị trấn Ngò - Yên Mô, nhà sát đường nên đến đó, hỏi ai họ cũng chỉ cho thôi". Tìm đến nơi tôi mới biết nhà bà Cầu không ở thị trấn, nó nằm cách thị trấn Ngò - Yên Mô chừng 3km, ngôi nhà nhỏ nhuốm đầy bụi đường của nghệ nhân hát xẩm Hà Thị Cầu do đoạn đường đang được thi công mở rộng và ở ngay sát Ủy ban Nhân dân xã. Trong ngôi nhà nhỏ những giấy khen, bằng khen, giải thưởng được treo la liệt ở bốn bức tường. Đó là, bằng khen năm 1998 của Đài Tiếng nói Việt Nam; danh hiệu Nghệ nhân dân gian; danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú; giải thưởng Đào Tấn... đã mang dấu ấn hoàng kim một đời hát xẩm của cụ.
Tiếp chúng tôi trong ngôi nhà quạnh quẽ khi chị Mận, người con gái đang sống cùng cụ không có nhà, cụ Cầu mặc chiếc áo khoác cộc tay, chất liệu nhung màu bã trầu đã cũ, bên trong là áo xanh màu nõn chuối với hai đầu gối tay tươm tả, để lộ ra ngoài nếp da nhăn nhúm. Có lẽ cũng đã hơn chục năm nay bà không còn lang thang hát xẩm. Từ ngày đó, cây nhị gắn bó với cụ suốt một đời lang bạt cụ cũng đã cho người ta mượn để mưu sinh. Nhớ cây nhị, cụ ngồi một lát rồi bật cười, cái cười móm mém buồn vô hạn: "Sức tôi giờ chẳng còn, không hát được nữa. Cây nhị nó buồn lắm. Có những đêm, giữa khuya tôi bỗng nghe thấy tiếng cây nhị khóc dấm dứt trên tường. Tôi tỉnh dậy hỏi thì nhị bảo nó nhớ thủa xa xưa nhiều lắm. Giờ đây, nằm nhàn nhã trên tường mà nó tưởng thân nhị như đã chết rồi. Thương cây nhị quá nên khi có người hỏi mượn đi theo gánh xẩm, tôi cũng dứt ruột mà đưa cho người ta".
Bóng chiều đâu đó đã đổ sập xuống phía sau ngôi nhà loang nổ đầy vết rêu phong của thời gian. Và cụ Hà Thị Cầu vẫn ngồi đó, phía trước hiên nhà lặng yên như đang lắng nghe một thanh âm nào đó vút lên trong sâu thẳm miền ký ức. Có lẽ vì vậy mà cụ không nghe thấy cả câu chào của chúng tôi chăng? Một nỗi buồn tê tái len lỏi trong lòng những người lữ khách khi cố níu kéo người đời để họ chợt nhận ra rằng ở mảnh đất này vẫn còn một di sản sống của làng hát xẩm.

Theo Nguoiduatin.vn

Đền Lăng còn đươc gọi là đền Ninh Thái (Ninh Thái linh từ). Đền ở xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm, Hà Nam.


Từ Thị xã Phủ Lý xuôi theo đường 21 khoảng 7km, đến phố chợ Động, rẽ tay phải theo đường rải đá liên huyện 1km về đến thôn Côi, tiếp tục rẽ tay phải 1km sẽ tới Đền Lăng.

Đền Lăng thờ vua Đinh, vua Lê và Tam vị đại vương. Theo ngọc phả, truyền thuyết địa phương cùng nội dung khắc trên bài vị thờ tại chính tẩm thì vị vua thứ nhất được thờ ở đây là vua Đinh Tiên Hoàng có công dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước. Liêm Cần là nơi mà vua Đinh đã lập căn cứ tuyển quân, vừa là nơi huấn luyện quân sĩ. Theo nhân dân địa phương, vị trí đền thờ hiện nay chính là nơi đóng quân khi xưa của vua Đinh.

Đền Lăng còn là nơi thờ Lê Đại Hành và hai con của ông là lê Trung Tông và Lê Ngọa Triều. Tương truyền, Lê Hoàn quê gốc ở Tràng An nhưng đời ông nội của ông là Lê Lộc đã dời đến Liêm Cần, ở đây có dấu tích một khu đất bằng phẳng mà nhân dân địa phương kể đó là dấu nhà cũ của Lê Lộc. Nơi đây còn có núi Côi, tương truyền có địa danh Mả Dấu là nơi ông nội Lê Hoàn được hổ đưa vào an táng khi hổ nhận ra mình giết nhầm bố nuôi. Núi Côi tương truyền còn có đàn thề mà Lê Hoàn lập ra tế trời đất thề cùng nghĩa quân phù Đinh đồng thâm trừ mối loạn, thu giang sơn về một mối. Trên mảnh đất Bảo Thái, Liêm Cần này có mộ tổ họ Lê, nơi tương truyền từng có sinh từ xưa kia của Lê Hoàn.

Đền Lăng còn thờ Tam vị Đại vương. Ba vị đại vương đó là hai vợ chồng ông Nguyễn Minh tương truyền quê ở Bảo Thái, là tướng tài của Lê Hoàn, ra sức phù Đinh dẹp loạn và vị thứ ba là vị thần Thiên Cương đã báo mộng cho ông nên phù Đinh trừ loạn nước.

Đền Lăng hiện nay còn lại tòa tiền đường, cung đệ nhị và cung chính tẩm được trùng tu vào đời Nguyễn. Tòa tiền đường làm theo kiểu mái con chồng diêm và được dành nhiều mảng chạm khắc công phu nhất. Hệ thống cột cái, hệ thống câu đối ở đây tạo vẻ chắc khỏe và mềm mại cho tòa tiền đường. Ở hai vì gian giữa có lớp lớp các mảng phù điêu chạm rồng, ly, quy rất công phu. Trên trụ non đấu rế còn được tạo thành mâm ngũ quả với đào lựu sinh động. Một số mảng mê còn chạm rồng chầu, chim phượng và hoa cúc rất tinh tế. Để gánh 4 trụ non, thợ chạm tạo 4 con nghê ghé vai đội trụ một cách sinh động, không rập khuôn, gò bó. Điều đặc biệt là các đề tài dân gian được khắc hoạ một cách khéo léo. Trên vì phía đông, người thợ khéo thể hiện một con thú bên hồ sen trong tư thế dấu mình, lẩn trốn trong lá sen cách điệu. Còn vì bên kia là cảnh con hổ đang ôm một cái dó lớn, bên cạnh đó là một con hổ khác đang đeo chiếc giỏ ở cổ.

Phía trong tòa tiền đường là đệ nhị cung và chính tẩm. Hai cung này chung một tòa bốn gian rộng, thiết kế theo phong cách thượng gường hạ kẻ. Hệ thống cột chính gồm 10 chiếc làm bằng gỗ lim theo kiểu búp đòng, đầu cột thon ngậm xà, chân cột thu nhỏ để hợp với hệ thống chân tảng. Cửa cung cấm được thiết kế ngạch ngưỡng theo lối cổ, vừa cắt mòn vừa soi chỉ. Tòa tiền đường, cung đệ nhị và cung chính tẩm đều được lợp bằng ngói nam cùng với hệ thống giao góc, dấu trụ, bờ dải, bờ nóc khiến Đền Lăng tuy không còn đầy đủ như xưa nhưng vẫn còn giữ được vẻ cổ kính của một công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật.

Tất cả các cột của ba tòa đều được đặt trên chân tảng kích thước 50x50cm. Chân tảng đục nối gương tròn theo cấp để định vị chân cột, vừa là trang trí tôn nâng đại trụ làm cho đẹp công trình. Điều đặc biệt là tòa chính điện của tòa đệ nhị còn có bức cửa võng, vừa gắn với câu đầu, với cột cái. Công trình đục chạm công phu, tạo chương với cảnh lưỡng long chầu nguyệt tinh vi nghệ thuật, tạo riềm trên, riềm dưới, riềm hai bên với những băng lá sòi, những mảng long vân, phượng vũ có sức truyền cảm cao. Trung tâm cửa võng nổi bốn chữ "Thánh cung vạn tuế" trong khung tròn rất đẹp. Cửa võng được sơn son thiếp vàng màu sắc óng ánh, ấm áp giúp cho công trình thêm hấp dẫn.

Đền Lăng còn lưu giữ khá nhiều đồ thờ tự, các đồ thờ của đền Lăng đều mới được sơn son thiếp vàng theo phương pháp cổ truyền. Do vậy khi tới đây mọi người đều cảm nhận sự lộng lẫy, uy nghi bởi đồ thờ tại các cung chỉnh tẩm, đệ nhị và tiền đường. Trước hết phải kể đến chiếc ngai thờ đời Hậu Lê được chạm trổ công phu. Đây là chiếc ngai lớn quy cách 110x70x55cm có dáng khoẻ và chạm nổi, chạm thông phong ở tay ngai, sập ngai thật cầu kỳ đẹp mắt. Những con rồng uốn lượn theo thế long thăng ở trụ, những hàng rèm sen dẹo, lá sòi hay khắc vạch song song… đều được thể hiện rất tinh tế. Những khung chữ nhật, khung vuông hay đường nét phóng khoáng trên riềm ở lưng ngai đều được chạm thông gió hoặc kênh bong các cảnh tứ linh, lá và hoa thật tài tình.

Bốn chiếc long đình có từ thế kỷ XIX trong có bài vị long ngai thờ vua Đinh, 3 cha con vua Lê Đại Hành. Trong các long đình có bài vị, long ngai thờ vua Đinh, Lê Đại Hành và Trung Tôn, Ngọa triều đều vào cỡ lớn tới 170cm và được tạo đáng theo tỷ lệ cân xứng, đặc biệt là chạm nổi, chạm thông phong nhiều đề tài hoa, lá, long, ly, quy, phượng rất tinh tế. Những hiện vật thế kỷ XIX này còn phảng phất đường nét Hậu Lê, song dáng cao, các xà đố thanh thoát mang phong cách thời Nguyễn. Đây cũng là hiện vật đặc trưng giai đoạn chuyển hóa giữa hai nền văn hóa Hậu Lê-Nguyễn.

Ngoài ra ở đây còn đôi hạc thờ thời Hậu Lê, đối tượng người nô lệ, chiếc sập thờ và hòm sắc đời Nguyễn… Đôi hạc thờ đền Lăng cao 250cm cũng được tạo dáng sinh động, tư thế đứng chầu nghiêm túc, đôi cánh cụp sát thân, chiếc cổ cất cao chầu mà không cứng nhắc, chứng tỏ nghệ nhân đã kết hợp nhuần nhuyễn thực tế với cách điệu. Đáng lưu tâm hơn là lớp lớp lông cánh như lá hòa lại, như cài vào nhau rất tự nhiên. Trang trí trên đầu bờm gáy và cả bàn chân bám trên lưng rùa cũng được thể hiện một cách linh hoạt.

Hương án đặt tại cung đệ nhị quy cách 145x68x165cm còn tốt, thoáng nhìn thấy lộng lấy, nhìn kỹ mới thấy hết cái tinh túy, độc đáo mà tiền nhân để lại cho con cháu đời sau. Đây là loại hương án tạo sự kết hợp kết câu lồng hai phần trên và phần dưới vào nhau, phần trên gồm bao loan, mặt hương án, cổ, riềm cổ và phần trên của chân, được gia công rất khéo, khi lồng vào rất khớp với phần thân dưới. Điều đặc biệt là bố cục hoạ tiết rồng chầu mặt trăng cùng với băng cánh sen ở riềm mặt hương án rất ăn ý với mô típ lá chòi uyển chuyển và bố cục long vân, hổ phù ở riêm cổ hương án. Chân hương án làm nổi hẳn ra, chạm chữ thọ cùng họa tiết rồng bay thật tinh xảo, cầu kỳ. Phần thân thì tạo thành những ô hoặc vuông, hoặc chữ nhật, quy cách khác nhau. Nhiều đề tài điêu khắc tứ linh, hoa lá khác nhau nhưng đề tài nào cũng được thể hiện công phu. Ấn tượng chung về các mảng chạm khắc ở đấy là nhiều mà không rậm, không thừa, càng nhìn càng nhận ra sự tinh xảo trong nghệ thuật và kỹ thuật thể hiện.

Chiếc sập thờ ở chính tẩm là hiện vật của thời Nguyễn nhưng cũng là loại đồ thờ quý hiếm. Sập có quy cách 220x180x85cm làm theo kiểu chân quỳ, khoẻ mà không nặng nề, ít cầu kỳ nhưng rất đẹp. Bao loan ở bốn góc mặt sập tạo ô hoạ tiết đơn giản nhưng rất đẹp. Cổ sập  chạm nổi, chạm thông gió long hóa, tứ linh, chân sập tạo kiểu chân quỳ dạ cá với mây tản, lá lật cách điệu như bay, như cuốn, gây xúc cảm nhẹ nhàng cho người thưởng thức.

Ngoài ra, đền Lăng còn giữ được đôi quán tẩy thời Hậu Lê, đôi tượng người nô lệ và một số đồ thờ thời Nguyễn được chạm khắc tinh thế, sơn son thiếp vàng lộng lẫy.

Kiến trúc cũng như đồ thờ tự nơi đây tạo nên vẻ đẹp của Đền Lăng, một di tích lịch sử văn hoá của Thanh Liêm, Hà Nam. Những sản phẩm văn hoá thời Hậu Lê rất quý hiếm cùng với các đồ thờ tự thời Nguyễn của đền Lăng rất cần được giữ gìn cẩn thận.

Theo Cổng TTĐT tỉnh Hà Nam


Nằm ở phía tây nam đồng bằng Bắc bộ, vừa là vùng đồng bằng, vừa là vùng bán sơn địa, sản xuất nông nghiệp là chính, các cư dân nông nghiệp Hà Nam cho đến nay vẫn còn lưu giữ trong đời sống văn hoá tinh thần của mình nhiều hình thái tín ngưỡng thờ thần nông nghiệp cổ sơ. Đậm nét nhất, có thể nói, là tín ngưỡng thờ Tứ Pháp.

Tín ngưỡng thờ Tứ Pháp là tín ngưỡng thờ bốn vị thần tự nhiên có ảnh hưởng quyết định đến đời sống nông nghiệp đang ở tình trạng lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Đó là bốn vị: thần Mưa (Pháp Vũ), thần Mây (Pháp Vân), thần Sấm (Pháp Lôi), thần Chớp (Pháp Điện). Truyền thuyết về việc xuất hiện tục tờ bốn vị thần này được chép vào sách Lĩnh Nam chích quái (thế kỷ XIV) với tên Truyện Man Nương. Truyện kể rằng ở vùng Thuận Thành, Bắc Ninh, có cô gái Man Nương đến chùa Phúc Nghiêm dốc lòng học đạo. Trụ trì chùa này là một nhà sư người Ấn Độ tên là Khâu Đà La.

Tình cờ một hôm, do nhà sư vô tình bước chân qua người Man Nương mà nàng có mang. Nàng xấu hổ bỏ về quê. Đến khi sinh con, nàng mang đứa con gái ấy đến trả nhà sư. Nhà sư mang đứa con đó gửi vào gốc cây trao cho Man Nương một chiếc gậy và dặn khi nào hạn hán thì lấy gậy chọc vào đất để lấy nước cứu dân. Khi Man Nương 80 tuổi, cây đa cổ thụ mang đứa con của bà bị đổ, trôi đến bến sông Dâu. Bao nhiêu người cũng không kéo nổi cây lên bờ, chỉ có Man Nương động tay vào thì cây di chuyển. Man Nương cho tạc cây thành 4 pho tượng Phật. Khâu Đà La đặt tên là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, mang vào chùa thờ tự. Đứa con bà gửi gốc cây nay đã hóa đá, rìu chạm vào bị mẻ hết, rước vào điện Phật để thờ thì tảng đá phát hào quang rực rỡ. Người bốn phương tới đây cầu mưa, không lúc nào không ứng nghiệm, bèn gọi Man Nương là Phật Mẫu. Ngày mùng 8 tháng 4, Man Nương tự nhiên hóa, nhân dân lấy đó làm ngày sinh của Phật. Hàng năm tới ngày này, người bốn phương đến tụ tập ở chùa để vui chơi, tưởng nhớ đến Mẹ Phật.

Thoạt đầu, Tứ Pháp chỉ được thờ trong các chùa ở vùng Luy Lâu. Dần dần, do tính chất linh ứng của nó mà lan dần ra nhiều vùng quê ở châu thổ Bắc bộ, trong đó có một số vùng quê ven sông Đáy của tỉnh Hà Nam. Tương truyền, các làng quê vùng Hà Nam co nghe tiếng Tứ Pháp ở Bắc Ninh linh ứng đã lên đó xin rước chân nhang để thờ. Từ khi rước Tứ Pháp về thờ thì được mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Các nơi thờ Tứ Pháp ở Hà Nam cụ thể như sau:

Thờ Pháp Vân: chùa Quế Lâm (Văn Xá, Kim Bảng), chùa Do Lễ (Liên Sơn, Kim Bảng), chùa Thôn Bốn (Phù Vân, Kim Bảng), Chùa Tiên (Thanh Lưu, Thanh Liêm).
Thờ Pháp Vũ: Chùa Bà Đanh (Ngọc Sơn, Kim Bảng), Chùa Trinh Sơn (Thanh Hải, Thanh Liêm).
Thờ Pháp Lôi: Chùa Đặng Xá (Văn Xá, Kim Bảng), Chùa Nứa (Bạch Thượng, Duy Tiên).
Thờ Pháp Điện: Chùa Bà Bầu (thị xã Phủ Lý).
Các chùa khác như chùa Quyển Sơn (Thi Sơn, Kim Bảng), chùa Thanh Nộn, chùa Phú Viên, chùa và đình làng Lạt Sơn (x. Thanh Sơn, h. Kim Bảng), chùa Thanh Thôn (Văn Xá, Kim Bảng) có phối tự thờ Tứ pháp trong thần điện. Tại Hà Nam, Tứ Pháp đã được gọi bằng những cái tên nôm na thân mật. Dân làng Đanh Xá gọi Pháp Vũ là bà Đanh (chùa Bà Đanh), dân làng Quế Lâm gọi Pháp Vân là bà Bến (chùa Quế Lâm), dân thị xã Phủ Lý gọi Pháp Điện là bà Bầu (chùa Bà Bầu)…
chùa bà đanh Ngọc Sơn, Kim Bảng
Hàng năm cứ vào dịp Tết nguyên đán, rằm tháng Giêng, rằm tháng Bảy, đặc biệt là ngày mùng 8 tháng 4, dân các địa phương gần xa lại đến chùa mở hội, rước kiệu, cầu nguyện tấp nập. Vào những năm hạn hán hay mưa gió thất thường, các chùa Bà Đanh, chùa Bến, chùa Bầu người ra vào cũng lễ rất đông. Từ năm 1990 đến nay, việc thờ cúng Tứ Pháp ở các địa phương Kim Bảng, Thanh Liêm, thị xã Phủ Lý bắt đầu có xu hướng gia tăng cả về quy mô lẫn phạm vi lễ thức. Chùa Quế Lâm, chùa Trịnh Sơn, chùa Bầu đã được tu bổ tôn tạo lại rất khang trang. Dân địa phương và khách thập phương về cúng lễ cũng ngày một tấp nập hơn.

Xét bản chất sâu xa, tín ngưỡng Tứ Pháp bắt nguồn từ quan niệm vạn vật hữu linh. Đây là một quan niệm tối cổ của con người trong quá trình sống phải đối mặt với muôn vàn khó khăn do mà thiên nhiên tạo ra. Quan niệm vạn vật đều có linh hồn, người nguyên thủy nhìn thấy đằng sau mỗi hiện tượng tự nhiên đều có một vị thần. Vị thần đó quyết định sự vận hành của vũ trụ, trong đó có đời sống con người, đặc biệt, đối với một vùng đất nông nghiệp trồng lúa nước. Quan niệm về thần Mưa, thần Gió hẳn đã ăn sâu vào tâm thức người dân Việt từ xa xưa, trước khi Phật giáo đặt chân tới mảnh đất này. Đến khi Phật giáo vào Việt Nam, các nhà sư đã nhìn thấy rõ điều đó và nhận thấy nếu Phật giáo muốn bén rễ vào mảnh đất này thì phải có sự dung hòa với tín ngưỡng dân gian. Nhận thức ấy không sai lầm, và đó là nguyên nhân sâu xa của cuộc hôn phối tinh thần giữa một người con gái bản địa (tượng trưng cho tín ngưỡng dân gian) với một vị chân tu thông tuệ (tượng trưng cho một tôn giáo lớn). Kết quả của sự giao thoa văn hoá ấy là hệ thống Tứ Pháp, bốn vị Phật mang đậm tính chất dân gian của người Việt mà có người gọi không sai là Phật giáo dân gian.

Người phụ nữ Việt Nam, người có công tái tạo một tôn giáo lớn trong những cơ thể mới mang đậm tính bản địa, rất thiêng liêng, huyền bí mà rất gần gũi với cuộc sống đời thường của người dân, được tôn làm Mẹ Phật. Đó là sự tôn vinh đối với người có công tái tạo sinh thành một hình thức tôn giáo mới, tôn giáo của người dân cầu mong mưa thuận gió hòa, phong đăng hòa cốc, tôn giáo của sự phát hiện ra sự tương tác mật thiết giữa sự huyền bí của vũ trụ với cuộc sống đời thường. Đó là triết lý sâu xa của tín ngưỡng thờ Tứ Pháp trong đời sống tâm linh của người dân Việt.

Theo Cổng TTĐT tỉnh Hà Nam


Tục thờ các vị thần sông nước có ở các đền Lảnh, Cửa Sông, Lê Chân, Vũ Điện, đình Đá Tiên Phong, v.v.

Xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh, thờ thủy thần là một tục thờ có sớm và phổ biến ở các vùng có địa bàn sông nước. Nghiên cứu truyền thuyết về các vị thần được thờ trong các đình, đền của Hà Nam, lễ hội, tục thờ các vị thần này thì thấy dấu vết về tục thờ thủy thần khá đậm nét.

Điểm đầu tiên phải kể đến là đền Cửa Sông (còn gọi là đền Tam Giang, đền Cô Bơ, đền Mẫu Thoải) ở thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên. Đền này được dựng ngay trên một gò đất nổi ở ngã ba sông Hồng với sông Lảnh Giang. Lảnh Giang thực ra là một nhánh của sông Hồng, do quá trình phân dòng mà tạo ra một gò nổi ở giữa và một nhánh sông chảy vòng qua gò nổi đó. Chính vì thế mà đền còn có tên là đền Tam Giang. Ngày nay dòng Lảnh Giang đã cạn dần, chỉ còn dấu vết là một con lạch nhỏ, sông chảy hiền hoà nhưng xưa kia chắc chắn nơi đây nước sông chảy xiết, và ở ngã ba sông này có những vòng xoáy nước đe doạ thường xuyên đến mạng sống của người dân. Vì thế mà ngôi đền trên gò nổi trước đây trở nên linh thiêng, ngày thường có đông người đến lễ. Sau này, do sông đổi dòng, bãi nổi lở dần, đền bị sạt lở, phải chuyển vào trong.

Nay đền được xây bên cạnh dòng sông Hồng và dấu tích của dòng Lảnh Giang đang dần cạn. Ngày hội đền trước đây có tục đua thuyền, rước nước là những tục liên quan mật thiết đến việc thờ cúng thủy thần. Vị thần mà ngôi đền này thờ là Mẫu Thoải, vị thần đảm trách miền sông nước trong tín ngưỡng Tứ Phủ.

Liên quan mật thiết đến đền Cửa Sông là đền Lảnh Giang, còn được gọi là đền Chính, đền Quan Lớn Đệ Tam. Đó là đền thờ một trong ba vị đại vương vốn là ba con rắn được sinh ra từ một cái bọc. Tương truyền, vị đại vương này rất có công trong việc chống Thục nên được vua Hùng phong là Nhạc Phủ Ngư thượng đẳng thần, sau được gia phong là Trấn Tây An Tam Kỳ Linh ứng thái thượng đẳng thần. Từ xuất xứ của thần sinh ra từ sự hoài thai của thủy thần trong hình hài của một con rắn, biểu hiện của nước, đến tên hiệu của vị thần này cũng thấy rất rõ bản chất của thần là một vị thần sông nước. Đó là lớp nghĩa cổ nhất của vị thần này mà truyền thuyết về một vị tướng của Hùng Vương được thêu dệt sau này cũng không làm mờ lớp nghĩa ban đầu.

Đền được xây sát phía ngoài chân đê, là nơi mà dân sông nước qua lại có thể dễ dàng vào cầu nguyện. Hình ảnh của vị thần, một con rắn thần, là hình ảnh phổ biến về các vị thủy thần ở nhiều vùng sông nước. Lễ hội đền Lảnh Giang, cũng như đền Cửa Sông, có lễ rước nước, hội đua thuyền, bơi chải. Đó là những nghi lễ phổ biến của tín ngưỡng thờ thủy thần. Nằm trong vùng một cụm di tích, cách nhau chỉ 100m mà có tới hai ngôi đền thờ thủy thần, đền Lảnh Giang và đền Cửa Ông đã thể hiện rất rõ tín ngưỡng thờ thủy thần của người dân địa phương.

Có thể thấy dấu vết của tục thờ thủy thần qua biểu tượng rồng được chạm khắc xung quanh và trên trán bia Sùng Thiện Diên Linh, trên vách tháp cũng chạm khắc nhiều mảng rồng ổ. Rồng biểu tượng cho tín ngướng của các cư dân canh tác lúa nước, ẩn dụ sự cầu mong mưa thuận gió hòa để phát triển sản xuất nông nghiệp. Trên trán bia chạm hai con rồng đối xứng, chầu vào hàng chữ Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (tháp bia Sùng Thiện Diên Linh – nước Đại Việt triều vua Lý thứ tư). Rồng còn làm vật trang trí trên gạch đất nung: thân hình tròn trịa với nhiều khúc uốn lượn, chân dài và nhỏ dần về phía đuôi, vừa có dáng dấp của một con rắn, vừa có hình thù của cá sấu. Hình rồng còn thô sơ như vậy là do biểu hiện tín ngưỡng của cư dân Việt viễn cổ ở đồng bằng sông nước với tục thờ rắn và cá sấu, lấy các loài thủy tộc này làm vật tổ. Huyền thoại họ Hồng Bàng (giải thích nguồn gốc các tộc người Việt cổ) kể rằng, ông Lạc Long Quân (vị tổ của người Việt đồng bằng) là một loài rắn hoá thân mà thành. Rắn và cá sấu theo tín ngưỡng của dân gian được trừu tượng hóa dần, trở thành hình tượng rồng. Và rồng cũng được các triều đại phong kiến Việt Nam chọn làm biểu tượng của vương quyền, càng về sau vẻ mạo của nó càng thể hiện uy quyền phong kiến.

Truyền thuyết về vị thần đình làng Văn Xá (thôn Văn Xá, xã Đức Lý, huyện Lý Nhân) cũng cho thấy rõ dấu vết của tục thờ thủy thần. Vị thần thành hoàng của làng thoát thai từ một con rắn, khi con đê vỡ, đã trở lại hình hài rắn, nằm chắn ngang đoạn đê vỡ, căng mình ra để ngăn nước lũ, bảo vệ xóm làng.

Vị thần thành hoàng của đình Đá Tiên Phong (thôn An Mông, xã Tiên Phong, huyện Duy Tiên), một nữ tướng của Hai Bà Trưng lúc hóa cũng có rồng mang thuyền vàng đến đón. Đó là những trầm tích văn hoá sâu xa của tín ngưỡng dân gian nhiều khi đã bị chìm đi dưới lớp nổi là các truyện kể về lịch sử được chồng chất sau này. Nhìn vào tục thờ, lễ hội, có thể thấy rõ những biểu hiện của tín ngưỡng này, tục rước nước, tục đua thuyền… phổ biến trong các lễ hội cổ truyền ở Hà Nam.

Theo Cổng TTĐT tỉnh Hà Nam

Tục thờ thành hoàng có nguồn gốc từ Trung Hoa cổ, sau khi du nhập vào làng xã Việt Nam đã nhanh chóng bám rễ vào trong tâm thức người nông dân Việt, trở nên hết sức đa dạng.


Thành hoàng có thể là một vị thiên thần như Phù đổng Thiên vương, một thần núi như Tản Viên Sơn thần, một vị nhân thần có công với dân với nước như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu, Dã Tượng... lại có khi là các yêu thần, tà thần... với nhiều sự tích hết sức lạ lùng, nhiều khi có vẻ vô lý. Tuy nhiên các thành hoàng được sắc vua phong (trừ những tà thần, yêu thần...) luôn luôn tượng trưng cho làng xã mà mình cai quản là biểu hiện của lịch sử, của đạo đức, phong tục, pháp luật cũng như hy vọng sống của cả làng. Thành hoàng có sức toả sáng vô hình như một quyền uy siêu việt, khiến cho làng quê trở thành một hệ thống chặt chẽ.

Theo tục lệ xưa, các đời vua thường phong các vị thành hoàng thành ba bậc: Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần và Hạ đẳng thần, tuỳ theo sự tích và công trạng của các vị thần đối với nước với dân, với làng xã. Các vị thần cũng được xét đưa từ thứ vị nọ lên thứ vị kia, nếu trong thời gian cai quản các vị này đã phù hộ, giúp đỡ được nhiều cho đời sống vật chất và tâm linh của dân chúng. Việc thăng phong các vị thành hoàng căn cứ vào sớ tâu của làng xã về công trạng của các vị thần. Sớ này phải nộp về triều đình trong một thời gian quy định. Mỗi lần thăng phong triều đình đều gửi sắc vua ban rất linh đình và cất nó trong hòm sắc thờ ở hậu cung đình làng.

Thành hoàng cũng được gọi là phúc thần, tức vị thần ban phúc cho dân làng, thường mỗi làng thờ một thành hoàng, xong cũng có khi một làng thờ hai, ba hoặc hai ba làng thờ một vị. Thành hoàng có thể là nam thần hay nữ thần, tuỳ sự tích mỗi làng.

Đình làng là nơi thờ phụng thành hoàng và trở thành một biểu tượng văn hoá tâm linh của mỗi người dân quê Việt. Làng nào cũng có đình, có khi mỗi thôn lại có một đình riêng. Đình để thờ thành hoàng nhưng đồng thời cũng trở thành nơi hội họp của chức sắc trong làng, hay là nơi sinh hoạt của cộng đồng làng xã. Mọi hoạt động này đều xảy ra ở đình với sự chứng kiến của thành hoàng.

Trong tâm thức người dân quê Việt, Đức thành hoàng là vị thần tối linh, có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ, phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt, khoẻ mạnh. Các thế hệ dân cứ tiếp tục sinh sôi nhưng thành hoàng thì còn mãi, trở thành một chứng tích không thể phủ nhận được của một làng qua những cơn chìm nổi.

Có thể cho rằng, thành hoàng chính là vị chỉ huy tối linh của làng xã không chỉ về mặt tinh thần mà còn một phần về mặt đời sống sinh hoạt vật chất của dân làng. Cho nên sự thờ phụng thành hoàng xét cho cùng là sự thờ phụng luật lệ làng xã, lề thói gia phong của làng.

Chính sự thờ phụng này là sợi dây liên lạc vô hình, giúp dân làng đoàn kết, nếp sống cộng cảm hoà đồng, đất nề quê thói được bảo tồn. Vì lẽ đó, các hương chức cũng như các gia đình trong làng, mỗi khi muốn mở hội hoặc tổ chức việc gì đều phải có lễ cúng thành hoàng để xin phép trước. Có lẽ, sự ngưỡng mộ thành hoàng cũng chẳng kém gì sự ngưỡng mộ tổ tiên.

Ngày nay, lễ hội làng đang phát triển mạnh mẽ và nở rộ ở khắp nơi. Tục thờ cúng thành hoàng, diễn lại thần tích, rước xách, tế lễ đang được phục hồi, vì có như vậy mới ghi nhớ được công lao của các vị tiền bối với nước, với làng.

Theo Cổng TTĐT tỉnh Hà Nam

Hát Dậm, còn được gọi là hát múa Dậm Quyển Sơn, bởi đây là một thể loại dân ca có những nét riêng độc đáo chỉ có ở làng Quyển Sơn, xã Thi Sơn, Kim Bảng, Hà Nam.
Hát Dậm là lối hát thường có trong hội tế thần của làng Quyển Sơn, diễn ra từ mùng 10 tháng Giêng đến 10 tháng Hai âm lịch hàng năm. Đây là hội lớn nhất trong năm, là đại tiệc của làng. Theo các cụ ở làng Quyển Sơn, hát Dậm có nguồn gốc từ một truyền thuyết lịch sử, khi Thái úy Lý Thường Kiệt thắng trận trở về cho quân dừng dưới chân núi Cấm, xã Thi Sơn, ăn mừng chiến thắng. Những lời ca, điệu múa trong ngày hội khao quân đó đã được người dân nơi đây gìn giữ, lưu truyền đến tận bây giờ.

Hát Dậm còn gọi là Hát đại trà (tiệc lớn). Có người cho rằng, sở dĩ có tên gọi hát Dậm, vì khi múa trong hát Dậm thường có động tác dậm chân. Người đi hát Dậm thường được tập hợp trong phường Dậm. Đứng đầu phường Dậm là bà trùm. Bà trùm là người đứng tuổi, thuở thanh xuân từng là con Dậm, thuộc tất cả các bài bản hát Dậm, có giọng hát hay, múa dẻo.

Ở Quyển Sơn, hàng năm làng đều tuyển chọn các cô gái thanh tân trong làng, tuổi từ 12-20, có giọng hát hay, xinh xắn vào phường Dậm. Các cô gái được gọi là con Dậm, khi lấy chồng thì không được đi hát nữa. Phường Dậm ngoài bà trùm, có khoảng 18-20 con Dậm. Ngày 6.2 âm lịch, quan viên làng làm lễ tế trong 5 ngày, bà trùm và các con Dậm hát múa xen kẽ theo nghi thức. Phường Dậm diễn xướng mỗi ngày một buổi hoặc sáng hoặc chiều theo sự điều hành của quan viên làng. Ngày xưa, sau khi phường Dậm diễn xướng xong phần nghi thức, thường có phần hát Kép giữa con Dậm với trai làng ở trước cửa đền, cửa đình, hát những câu giao duyên.


Hát Dậm là lối hát tế thần, vì thế các con Dậm rất vinh dự được làng tuyển chọn vào phường Dậm, mặc dù phải tập luyện vất vả, không có thù lao mà còn phải góp tiền trầu hương mỗi lần đi hát. Mỗi khi hát ở cửa đền, cửa đình, các con Dậm mặc quần áo dài màu trắng, đầu đội khăn vấn màu đỏ, thắt lưng màu đỏ giắt một chiếc quạt giấy, làm đạo cụ múa, chân để trần. Bà trùm mặc quần áo dài màu vàng, khăn vấn màu vàng. Nhạc cụ có cặp xênh do bà trùm sử dụng để gõ nhịp. Một cặp trống con có đường kính chiều rộng 23cm, chiều cao 10cm, tay cầm dài khoảng 20cm, do 2 con Dậm vừa dùng làm đạo cụ, vừa là nhạc cụ diễn xướng trong một số bài.

Hát Dậm thuộc dạng ca – múa – nhạc tổng hợp. Hầu như bài nào cũng có múa và diễn. Múa trong hát Dậm có nhiều tổ hợp động tác. Một số tổ hợp động tác múa rất đẹp, duyên dáng và mang phong cách riêng. Đa phần bài, làn điệu hát Dậm có diễn xướng và xô. Người xướng là bà trùm. Người xô là các con Dậm. Kỹ năng hát Dậm phải vang, rền. Đặc biệt là sự phối hợp giữa xướng và xô.

Lời ca trong hát Dậm có các thể thơ 4 chữ, 5 chữ, thơ tự do, lục bát, lục bát biến thể, tứ tuyệt. Giai điệu các bài có nội dung cầu chúc thần thánh thì trang nghiêm, thành kính. Những bài có nội dung về sinh hoạt lao động và tâm tình nam nữ giai điệu tinh tế, trữ tình, trong sáng...

Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, làng Quyển Sơn không tổ chức hát Dậm. Vào khoảng cuối những năm 60 thế kỷ XX, một số các cụ, các bà ngày trước từng đi hát Dậm được mời về Hà Nội biểu diễn, quay phim, thu thanh một số bài hát Dậm. Sau đó các bà, các cụ tập hợp nhau lại thành lập phường Dậm, ôn luyện những bài bản, những điệu múa trong hát Dậm. Có một điều đặc biệt là các cụ đều tự nguyện bỏ công sức, thậm chí bỏ cả tiền ra truyền dạy cho các cháu trong làng hát Dậm.

Cụ Trịnh Thị Dăm năm nay gần 90 tuổi, là bà trùm phường Dậm Quyển Sơn từ năm 1990 đến nay, đã được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian. Cụ cho biết: “Tôi đi hát, dạy các cháu hát múa vì muốn lưu truyền những bài hát, điệu múa quý giá của tổ tiên để lại, những khi được vào đền, vào đình hát, người thấy thanh thoát lạ thường”. Theo nghệ nhân Trịnh Thị Dăm, hát Dậm có khoảng 38 làn điệu, nhiều làn điệu về cơ bản có âm điệu giống nhau, chỉ khác nhau ở 1-2 nốt nhạc. Sự khác nhau này do lời ca khác nhau tạo nên. Chính vì thế cấu trúc của dân ca hát Dậm khá đa dạng. Trong 38 làn điệu này, phường hát Dậm gần như nối liền với nhau, nếu căn cứ vào nội dung lời ca, hát riêng từng nội dung, thì tương ứng là 38 bài. Một số bài có cấu trúc khổ nhạc đơn, gồm 2-4 câu nhạc. Một số bài có cấu trúc hai khổ nhạc đơn (phát triển trên cơ sở của khổ nhạc đơn). Có bài có cấu trúc liên hoàn các khổ nhạc đơn (giống liên khúc)...

Trải qua bao thăng trầm, sinh hoạt hát Dậm vẫn hiện diện ở làng Quyển Sơn. Trong sâu thẳm tâm linh, cùng với nhận thức rõ giá trị của hát Dậm, dân làng Quyển Sơn đã và đang duy trì sinh hoạt văn hóa phi vật thể này, mong muốn và hy vọng hát múa Dậm sẽ trường tồn.


Theo Hanamtv // NDBND

Chùa Long Đọi có tên chữ là Diên Linh Tự, nằm trên đỉnh núi Đọi Sơn, thuộc huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam vốn là đại danh lam kiêm hành cung thời Lý. Theo truyền thuyết, chùa Long Đọi nằm trên thế đất Cửu Long bởi lẽ toàn cảnh núi Đọi nhìn xa trông giống như một con rồng đất lớn nằm phục giữa vùng đồng bằng chiêm trũng, đầu hơi nhô cao hướng về phía Thăng Long. Đứng trên đỉnh núi có thể nhìn thấy 9 con đường, sông chạy về giống như 9 con rồng. Mắt rồng là 9 cái giếng hiện nằm xung quanh dãy núi Đọi trong các khu dân cư, dưới chân núi.



Ngày hội chùa Long Đọi.



Theo truyền thuyết, mùa hạ tháng 5 niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ IX (1118) vua Lý Nhân Tông cho xây dựng chùa và tháp Sùng Thiện Diên Linh, đến năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2 (1121) thì hoàn thành. Nhân đó vua đặt tên cho núi là Long Đọi Sơn. Đầu thế kỷ 15 ngôi chùa tháp đã bị quân Minh phá hủy hoàn toàn. Trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa ngôi chùa đã được mở rộng hơn xưa. Vào năm 1860 - đời Tự Đức năm thứ 13, hòa thượng Thích Chiếu Thường đã phát tâm sửa tiền đường, thiêu hương, thượng điện, nhà tổ, gác chuông, nghi môn, xây dựng hoàn chỉnh 125 gian, từ đây chùa trở thành trường Bắc Kỳ Phật giáo. Tuy nhiên, đến thời Nguyễn ngôi chùa lại bị phá hủy hoàn toàn và chùa Long Đọi ngày nay được phục dựng lại vào năm 1957.

Trong đợt khảo cổ gần đây, người ta đã khai quật được một nền móng tháp ngay phía sau thượng điện hiện tại của chùa. Đây có thể xem là bằng chứng xác thực về cây tháp cao ngàn trượng Sùng Thiện Diên Linh đẹp lộng lẫy như chép trong văn bia: “Tháp xây mười ba tầng chọc trời, mở bốn mươi cửa hóng gió. Vách chạm rồng ổ, xà treo chuông đồng, tầng trên đặt hộp vàng xá lỵ đỉnh nóc xây tiên khách bưng mâm… tầng dưới chia tám tướng khôi ngô, đứng hộ vệ có thần nhân cầm kiếm. Chính giữa đặt tượng Như Lai, sân thềm có bậc lang vũ 2 bên. Rồi bên tả chùa dựng cung tứ giác… bên hữu chùa dựng nhà khám nhọn vuông, trong đặt tân đầu hòa thượng”

Chùa Long Đọi là một trong số ít những ngôi chùa hiện nay còn lưu giữ được nhiều hiện vật mỹ thuật thời Lý có giá trị. Bia Sùng Thiện Diên Linh cao 2,5 m, rộng 1,65 m, dày 0,3 m với bệ là một khối đá chạm bốn con rồng lớn uốn khúc. Đây cũng là một số ít những bia thời Lý còn lại đến ngày nay. Trán bia là hai con rồng Lý rất đặc trưng chầu vào giữa tên bia “Đại Việt quốc dương gia đệ tứ Sùng Thiện Diên Linh tháp bi”. Các hình rồng này đã được trang trí lặp lại trên diềm bia với một kích thước nhỏ hơn, nhưng cũng rất tinh xảo. Ở hai cạnh bia hai bên người ta lại bắt gặp các trang trí hình rồng này được tạo hình nội tiếp trong những hình thoi, tạo nên sự thay đổi linh hoạt cho cách trang trí bia.

Tượng Kim Cương chùa Đọi là những tác phẩm rất nổi tiếng về nghệ thuật điêu khắc đá. Ngày nay chùa Đọi chỉ còn pho tượng, trong đó một số bị mất đầu hoặc sứt gãy. Thời Lý những pho tượng này được đặt ở bốn cạnh của ngôi tháp báu với ý nghĩa bảo vệ cho tám phương Phật Pháp. Tuy nhiên đến khi tháp đổ, thì chúng cũng không còn nguyên trạng. Mặc dầu vậy những tác phẩm này vẫn còn lưu lại những giá trị điêu khắc không thể phủ nhận.
Một trong những di sản thời Lý còn lại.

Được tạc bằng sa thạch nguyên khối, với dáng võ quan khỏe mạnh, các pho Kim Cương ở đây đã cho thấy một tinh thần Lý vô cùng rạng rỡ. Các pho tượng Kim Cương đầu đội mũ có chỏm tròn trên đỉnh, bó sát đầu, ôm lấy hai bên mang tai cho đến tận cằm. Giữa trán và chóp mũ nổi lên những đường gờ tạo thành hình vòng nối xuống những bông hoa cúc cách điệu hai bên mang tai. Thân tượng vận giáp trụ, bó sát người xuống tận dưới đầu gối, ngực áo có hai xoáy lớn, vai có hình mặt hổ phù, phía trước bụng có dải như hình chiếc khánh. Thân áo điểm những bông hoa cúc chạm nổi nhiều cánh. Chân đi hài cao cổ có mũi hơi cong.

Ngoài những tác phẩm thời Lý còn lưu giữ đến ngày nay, hiện nay ở Long Đọi Sơn vẫn còn lưu giữ khá nhiều tác phẩm mỹ thuật của các giai đoạn sau như tượng Quan Âm Thị Kính thế kỷ XVIII, hay pho tượng Di Lặc bằng đồng được làm vào thời Tự Đức. Ngày nay, trải qua nhiều lần trùng tu, bên cạnh những pho tượng cổ, các pho tượng mới cũng được làm và được sắp đặt có quy mô. Mặc dầu chứng kiến không ít những sự thăng trầm của lịch sử nhưng Long Đọi Sơn 1.000 năm qua vẫn sừng sững giữa đất trời, làm rung động lòng người và thu hút nhiều khách tham quan. Đây cũng là ngôi chùa lưu giữ nhiều nhất dấu ấn nghệ thuật của một giai đoạn hoàng kim trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, gắn liền với dấu mốc lịch sử của việc định đô Thăng Long từ 1.000 năm trước.

Theo Cổng TTĐT tỉnh Hà Nam

Phù Vân vốn là một làng hoa nổi tiếng xưa nay, nằm ven thành phố Phủ Lý, Hà Nam. Những ngày giáp Tết, không khí nơi đây càng trở nên hối hả hơn bao giờ hết... Nơi đây muôn hoa đang đua nhau khoe sắc đón xuân.


Những ngày giáp Tết, chúng tôi có dịp ghé thăm làng hoa Phù Vân, thuộc xã Phù Vân, một làng hoa nổi tiếng nằm xen thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Khác với năm trước, năm nay làng hoa hứa hẹn một mùa bội thu. Đã từ lâu nơi đây nổi tiếng với truyền thống trồng hoa, cây cảnh lâu năm. Mỗi năm Tết đến xuân về, nơi đây lại trở nên rộn ràng hơn bởi không khí chuẩn bị của những người trồng hoa.

Mặc dù còn hơn nửa tháng nữa mới đến Tết cổ truyền của dân tộc, nhưng làng hoa Phù Vân đang trở nên nhộn nhịp bởi các thương lái tìm về xem hoa, đặt hàng hoa Tết. Đây được xem là vựa hoa cung cấp cho thị trường Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình…

Nhìn những ruộng hoa với đủ sắc màu đang bắt đầu khoe sắc, những đôi tay nhẹ nhàng chăm sóc hoa của những “nghệ nhân” chân đất càng làm cho không khí Tết nơi đây trở nên rộn ràng hơn bao giờ hết .

Chị Nguyễn Thị Huệ chia sẻ: “ Không như thời tiết năm trước, năm nay thời tiết thuận lợi hơn, những người trồng hoa như chúng tôi mới được mùa. Các loại hoa ở đây đang phát triển bình thường theo đúng lịch của người chăm sóc hoa. Hiện hoa Cúc và hoa Đồng Tiền đang bắt đầu nở sớm hơn so với hoa Hồng. Chúng tôi đang phải hãm thời gian hoa nở chậm lại một vài ngày để kịp phục vụ hoa Tết”.

Bên cạnh những ruộng hoa với cơ man nào là Hồng, Cúc, Đồng Tiền... là những ruộng quất đỏ ửng. Không chỉ nổi tiếng với các loại hoa, Phù Vân còn nổi tiếng với Quất cảnh, có những chậu Quất lên đến tiền triệu.

Anh Trần Văn Nam, một người có kinh nghiệm trồng Quất cho biết: “ Năm nay trời chưa rét đậm nên Quất được mùa, không bị rụng. Tuy nhiên Quất năm nay trái hơi nhỏ vì thời điểm tháng 5, tháng 6 vừa rồi thời tiết ít mưa nên ảnh hưởng đến sự phát triển của Quất”.

Qua tìm hiểu của chúng tôi, năm nay, giá bình quân của một cây Quất có đường kính 1 m trở lên là giá bán từ 2 - 3 triệu đồng. Quất tán lùm giá bình quân từ 400 - 1 triệu đồng/cây. Đối với những người thích chơi Quất, nơi đây còn có Quất thế, Quất được tạo dáng to có giá giao động từ 2 - 10 triệu đồng/gốc.

Đối với các loại hoa khác như: Cúc giá tại ruộng dự kiến từ 2.500 - 3.000đ/cành, hoa Đồng Tiền là 2.000đ/bông, hoa Hồng 3.000đ/bông... Tuy nhiên vào những dịp giáp Tết, giá hoa có thể còn tăng lên tùy loại...

Những hình ảnh PV Dân trí ghi lại tại làng hoa Phù Vân: